Tuesday, June 2, 2009

Vũ Tài Lục-THÂN PHẬN TRÍ THỨC

THÂN PHẬN TRÍ THỨC

» Tác giả: Vũ Tài Lục

1. PHẦN MỘT

PHẦN TỬ TRÍ THỨC


DƯỚI NHÃN QUAN CHÍNH TRỊ



VIỆT CHIẾN XUẤT BẢN



Viết cho


Trương Tú Việt


PHẦN MỘT


THÂN PHẬN



CHƯƠNG THỨ NHẤT


PHẨM ĐỨC



Phần tử trí thức?


Là người đem lại giá trị cho


những gì mà tự chúng không có.


PAUL VALÉRY


Phần tử trí thức?


Tôi muốn nói đến những người


suy tư, không phải bọn lộng chữ,


lợi dụng, bịp bợm và ăn bám


HENRI BARBUSSE


Dẫn



Thảm kịch của ngày hôm nay


là do chính trị


NAPOLÉON



Trước những việc xảy ra trong cuộc vận động tuyển cử ở Mỹ năm 1968, giáo sư Lewis S. Feuer nhận định:


Đây là lần đầu tiên phần tử trí thức đã làm đủ mọi cách để cho trí thức thành một lực lượng ảnh hưởng đến sự quyết định các chính sách của chính phủ.


Thật vậy, dân chúng Hoa Kỳ và hết thảy những người theo dõi thời cục trên thế giới đều thấy rằng, người trí thức Mỹ đã nổi dậy, họ không muốn giữ cái vai trò chính trị lỗi thời như là viết những bài diễn văn cho các ông lớn bà lớn, hoặc như là một nhân sĩ để được mời vào “brain trust” hay ủy ban tư vấn. Bây giờ rõ rệt họ đòi hỏi và tự coi họ như một đoàn thể, một tổ chức, và một lực lượng chính trị.


Chính bởi hàng loạt vụ nổi loạn của trí thức trên khắp nước Mỹ mà Tổng thống Johnson đã đành phải rút lui không ra ứng cử thêm một lần nữa. Trong buổi họp của đảng Dân-chủ, các bạn thân nhất của ông Lyndon Johnson đã nói với ông:


Anh có thể dễ dàng mở cuộc phản công, tuy nhiên anh chớ nên coi thường bọn trí thức đó. Bọn chúng hiện tại tuy chẳng có quyền lực gì cả nhưng hình như dư luận số đông đã nghe theo chúng.


Giờ đây không ai không nhận rằng: Chẳng còn phải là một hiện tượng nhất thời nữa, việc phần từ trí thức trở thành một lực lượng chính trị là một sự thực, một khuynh hướng đang tiến rất mau, rất mạnh. Mọi người đã biết tường tận những hành động nhằm ngăn chặn của ông John và của toàn thể chính trị gia bảo thủ Hoa Kỳ đối với cuộc dấy lên của giới trí thức, kết quả ông Johnson cùng tập đoàn của ông phải chịu thất bại.


Nếu mở lại trang sử cũ thì đã từ lâu lắm rồi người trí thức Mỹ bực bội vì ảnh hưởng của họ vào chính trị chẳng được bao nhiêu, các điều họ nghĩ, các điều họ nói, xã hội chẳng thèm lưu ý. Sau thế chiến I, trí thức Mỹ là những chàng trẻ tuổi buồn tủi (sad young men)), họ xô nhau sang Âu Châu vì ở đây trí thức được tôn trọng. Đứng bên trời Âu họ quay về nhìn đất Mỹ của hai vị Tổng thống Harding và Coolidge bằng thái độ chế giễu. Giữa lúc ấy thì nhạc Jazz thịnh hành, nhịp điệu Jazz như xui đẩy họ vào với tư tưởng và hành vi phóng túng cho cái sống cá nhân, nhà văn Scott Fitgerald nhận xét tâm trạng văn hóa Hoa Kỳ trong thời này như sau: “Thời đại của nhạc Jazz, chính trị hết là điều đáng chú ý”. Kẻ đi khỏi quê cũng như người còn ở lại, tất cả đi chung vào một lối nổi loạn bằng vui thú cá nhân đặt trên triết lý vứt bỏ trách nhiệm.


Năm 1930, trí thức Hoa Kỳ trải qua thời gian sống với cuộc khủng hoảng đen tối nhất lịch sử nên có phong trào trở lại với trách nhiệm. Nhiều nhà văn hội họp nhau tổ chức ủy ban, nhữung buổi thuyết trình, những đám biểu tình và ra tuyên ngôn. Năm 1932-1933 nhiều nhà văn đánh tiếng ký vào bản nhận định cuộc khủng hoảng với văn hóa (Culture and the crisis). Bản nhận định này nổi bật với chủ trương thiên tả, mục đích là để hoạt động tranh cử cho hai ứng cử viên cộng sản William Foster và James Ford. Nó đã không đạt được mục đích. Tuy thế trong thời gian mà dân chúng Mỹ hãy còn chưa quên cơn ác mộng 1929, trong thời gian mà chính sách New Deal của Tổng thống Roosevelt mới bắt đầu chuyển bánh thì ảnh hưởng tả phái vẫn được mến chuộng. Dần dần Hoa Kỳ hàn gắn vết thương cũ rồi mạnh bạo phát triển sang con đường tư bản mới, tinh thần New Deal nguội bớt đến chỉ là cái bóng mờ mỗi khi nhắc lại cốt làm cái việc mị dân mà thôi, tả phái Hoa Kỳ bị bóp chết.


Giữa lúc giới trí thức một lần nữa bị chính trị cho thụt soáy hơi (trou d’air) thì vụ cách mạng và nội chiến Espagne bùng nổ (1936) lôi cuốn trí thức Âu châu cũng như Mỹ quốc làm thành một phong trào dấn thân với Espagne để biểu đạt ý hướng mình. Phong trào này nhà báo Benson mệnh danh là phong trào các nhà văn cầm súng (writers in arms). Bức tranh đẹp nhất của phong trào này đã được Hemingway viết thành cuốn tiểu thuyết dài rất nổi tiếng là “For whom the Bell Toll!”


Sôi nổi chưa được bao lâu thì phong trào bị một biến cố trọng đại hơn nuốt mất. Hitler, Mussolini làm dữ tạo ra nguy cơ chiến tranh thế giới lần nữa. Lý tưởng hy vọng của phần tử trí thức đối với nội chiến Espagne là chống chủ nghĩa Phát xít. Nguy cơ chiến tranh làm cho trí thức bị lôi cuốn về đối phó với họa xâm lược của Đức quốc. Cái lý tưởng chống phát xít ở một xứ ngoài trở nên mơ hồ không cấp thiết nên nó bị gạt ra khỏi bộ máy tuyên truyền chánh thức của mỗi chánh phủ các nước Âu châu, nhân danh Tổ quốc chống xâm lược. Mặc dầu gót giày Đức quốc xã không thể nào đặt lên lãnh thổ Hiệp chủng quốc, nhưng một khi trí thức Âu châu bị hẫng thì hoạt động riêng lẻ của trí thức Hoa Kỳ cũng chẳng còn lý do gì tồn tại trong vụ Espagne. Vả lại nhờ giúp đỡ của Đức quốc xã, Phát xít Espagne đã thắng cách mạng thiên tả rõ rệt. Thêm nữa giáo hội công giáo quyết định không đứng về phe cách mạng đồng thời thỏa thuận cới Hitler trên vụ Espagne thì cuộc cách mạng Espagne kể như hoàn toàn tiêu hủy.


Tham dự thế chiến lần thứ hai, Hoa Kỳ nghiễm nhiên là quốc gia quan trong bậc nhất cho chính trị quốc tế. Để hoạt động hiệu quả, nhu cầu trí thức của quốc gia tăng lên vùn vụt, phần tử trí thức rất cần vào các công việc nghiên cứu, thông tin tuyên truyền, gián điệp, vân vân… Chiến tranh nóng chấm dứt, chiến tranh lạnh mở màn thì nhu cầu kia càng lớn lên gấp bội. Từ 1950-1953 trí thức ở vào thế ưu việt của xã hội Hoa Kỳ.


Nếu đà này kéo dài thêm, Hoa Kỳ chắc chẳng tránh khỏi một cuộc cách mạng, nên phe bảo thủ đi đôi với phe phản động khởi sự phản công, theo họ thì mục đích là làm cho Hoa Kỳ không rơi vào tay cộng sản.


Người được đưa lên lãnh đạo cuộc phản công là nghị sĩ Mac Carthy. Mac Carthy cùng tập đoàn của ông đã dựng hẳn lên ở nước Mỹ một triều đại gọi là triều đại Mac Carthy với chủ trương và chiến lược chống trí thức (anti-intellectualism).


Mac Carthy cùng tập đoàn buộc trí thức phải phục tòng phục vụ hệ thống tư bản, hệ thống áp phe. Dưới danh nghĩa bài cộng, chính phủ đã phải theo Mac Carthy để thanh trừng mọi người mà nghị sĩ Mac Carthy gọi là cần phải trừ khử (les indésirables). Phe Carthy có hai thứ vũ khí đáng sợ:


a) chụp mũ gián điệp


b) tẩy chay


Với cái chụp mũ bị cáo làm gián điệp nên biết bao phần tử trí thức bị theo dõi đe dọa, đời sống ngột ngạt không kém thân phận người Do thái trong lưới Gestapo. Carthy lên án tới 1456 người. Với lối tẩy chay này mà một nhà văn tiến bộ viết sách không ai dám xuất bản, dạy học không ai dám thuê, xuất ngoại không được phép, cuối cùng phải tự tử chết. Bằng quyền lực của ngôi vị chủ tịch Ủy ban điều tra, Mac Carthy hét ra lửa, làm mưa làm gió trên chính trường vượt quyền Tổng thống. Có lần Mac Carthy cùng cánh cực hữu đòi đuổi cả Oppenheimer nhà vật lý học nguyên tử cột trụ, đòi chống lại việc cử Charles Bohlen nhà ngoại giao tên tuổi vì ông Bohlen có tội làm cố vấn cho Roosevelt ký hiệp ước Yalta mà Carthy cho rằng hiệp ước Yalta làm Mỹ thua thiệt.


Quá lộng hành, Mac Carthy phạm mấy lỗi lầm to lớn đáng kể nhất là vụ ông đòi đốt sách. Trong số sách bị đốt có cả tên tác giả Foster Rhee Dulles bộ trưởng ngoại giao. Đến mức này, Tổng thống Eisenhower không nhịn được nữa, Eisenhower đến Darmouth nói ở trường đại học:


"Anh em đừng a dua với bọn đốt sách. Chớ tưởng chúng ta có thể dấu các lầm lỗi của chúng ta bằng cách đốt hết mọi chứng cớ. Làm sao chúng ta thắng được cộng sản nếu ta không hiểu ý hướng cộng sản cùng sức quyến rũ của chủ nghĩa đó!".


Qua lời trên, người ta nhận ra ngay Eisenhower chưa dám chửi thẳng Mac Carthy, thế lực Carthy còn mạnh lắm. Nhưng Carthy vẫn tiếp tục đi quá trớn, ông đụng chạm giáo hội, quân đội, luật sư đoàn, Carthy gây thù khắp nơi. Dư luận chán ghét ông lan rộng. Ngón đòn chí mạng đầu tiên đánh thẳng xuống đầu Carthy là vụ án chàng trí thức trẻ tuổi Fisher, bị cáo là hội viên của một tổ chức khả nghi. Luật sư Welch bênh vực cho bị cá đã chỉ vào nghị sĩ Mac Carthy mà nói:


Chúng ta không nên ám sát người trẻ tuổi này, thưa thượng nghị sĩ ngài đã đi quá trớn rồi, ngài không còn chút lương tâm nào nữa sao?


Khắp nước hài lòng câu nói của luật sư Welch, với cái hăng say rất trí thức, luật sư Welch đã đem dưỡng khí vào trong cơn tức giận của dân chúng bấy lâu dồn nén bùng cháy. Đâu đâu cũng rục rịch biểu lộ sự khó chịu với Carthy. Tháng 12 năm 1954 với 67 phiếu thuận với 22 phiếu chống, Mac Carthy bị Thượng viện cất hết quyền. Như bị gáo nước lạnh dội bất thần Carthy ấp úng trước Thượng viện: Tôi đã làm gì nên nỗi! Mấy năm sau Carthy chết vì rượu.


John F. Kennedy làm Tổng thống Hoa Kỳ, vận động trí thức bước vào trang sử mới. Kennedy là người được giải thưởng Putlizer, ông là một phần tử trí thức. Ngày Kennedy tuyên thệ nhiệm chức cũng là ngày giới trí thức tràn ngập hy vọng. Các nhà văn như John Steineck, Arthur Miller, W. H. Auden, v.v… được mời dự buổi tiếp tân đầu tiên của Kennedy tại tòa Bạch ốc, và người được dành nhiều danh dự nhất là thi sĩ 80 tuổi Robert Frost. Ngay nhà văn khinh bạc nổi loạn Norman Mailer cũng ngả theo thái độ trí thức quyến rũ của Kennedy, Mailer tuyên bố:


Trí thức Hoa Kỳ đang bước tới một biên cương mới, từ lâu chúng tôi bị lịch sử cấm đoán, từ lâu chúng tôi đã bỏ mặc chính trị vào tay bọn người đã không làm lịch sử lại còn kéo lịch sử đi trật đường rầy.


Hướng về Kennedy, trí thức đổ xô tới Hoa Thịnh Đốn. Họ gia nhập đoàn quân Hòa bình, họ làm việc cho Bộ quốc phòng cùng những sự vụ ngoại giao.


Ở thời Kennedy phần tử trí thức ra sao? Carey Mc Wiiliams nhận định như sau:


Họ vẫn chưa hoàn toàn thỏa mãn ước nguyện, bây giờ họ thành những chuyên viên chống nổi dậy, chuyên viên nghiên cứu về Kremlin, chuyên viên nghiên cứu các vụ khủng hoảng, hoặc quá quắt hơn là kẻ cắp cặp cho mấy ông mi-li-te (military flunkies).


Williams muốn nói là người trí thức ít nhiều đành phải từ bỏ những gì tốt đẹp của sứ mạng trí thức để lột xác thành một thứ quan liêu (bureaucrate) hay giai tầng chuyên viên (technocrate). Nhưng đổi lại trí thức thu hoạch cái lợi không nhỏ là học tập kinh nghiệm chính quyền, thứ kinh nghiệm hết sức mới mẻ rất hữu ích cho cuộc đấu tranh sau này.


Nếu như Kennedy còn nắm giữ quyền điều khiển quốc gia, trí thức tuy chưa mười phần mãn nguyện nhưng vẫn còn gửi nhiều tin tưởng vào tương lai.


Vụ Dallas xảy đến, vị Tổng thống trí thức nhất Mỹ quốc ngã gục bởi mấy viên đạn bắn ra với lỹ thuật tinh vi với tổ chức bí mật chu đáo, biên cương mới của trí thức bị phe phản động đánh phá.


Trước cơn bão tố, phải chọn giữa Goldwater và Lyndon Johnson, giới trí thức ào ạt ủng hộ Johnson, họ nghĩ Johnson dù sao cũng còn mang chút di tích chút âm hưởng Kennedy. Do đó Johnson thắng lợi vẻ vang tại khắp nơi vận động tuyển cử.


Tuần trăng mật của Kennedy với trí thức Hoa Kỳ không kéo dài được bao lâu đã gặp biến cố gây nên lủng củng. Johnson quyết liệt leo thang chiến tranh V.N. Trí thức nhất loạt phản đối, nhiều người tên tuổi rời bỏ chính quyền Johnson. Thâm tâm Johnson rất hài lòng coi việc trí thức bỏ ông như một sự thoát nợ, ông là tay chính trị nhà nghề ít hợp với tâm tưởng trí thức, ông chọn phe bên kia hẳn nhiên nhiều quyền lực hơn. Hoa Kỳ phân thành hai chiến tuyến, trí thức Hoa Kỳ sau thời gian ở chính quyền đã nhìn thấy nhược điểm chính quyền nên họ dùng kinh nghiệm đó vào cuộc đấu tranh tạo ra nhiều kết quả khiến cho Johnson khó lòng ăn ngủ ngon lành. Trái với ý ông nghĩ, Johnson bây giờ mới thấy sức công phá của trí thức cũng chẳng yếu ớt gì.


Giả sử vấn đề V.N. hanh thông không sa lầy chắc Johnson không ngại cho lắm. Đằng này vấn đề V.N. lại là nước chiếu bí nên chính quyền Johnson mắc kẹt. Để đối phó với mặt trận trí thức Johnson mời bác sĩ Eric Goldman vào Bạch cung với chức vụ cố vấn đặc trách các vấn đề liên hệ đến phần tử trí thức. Ông Goldman được quyền bổ nhiệm ba phụ tá. Nhưng Goldman hoàn toàn thất bại, trước hết ông thất bại ngay trong nội bộ, ba phụ tá bất đồng ý kiến với ông nên xin từ chức, từ chức xong họ đứng về bên kia. Đối ngoại chẳng những không làm chông đối giảm bớt mà hố sâu chia cách chính quyền Johnson với trí thức bị đào sâu hơn. Thất bại nặng nhất xảy ra trong đại hội nghệ thuật tại Bạch cung, giữa đại hội trí thức ầm ĩ công kích chính sách ngoại giao của Johnson. Lẽ ra mục tiêu của đại hội này là để làm một cuộc dàn hòa thì lại biến thành cơ hội găng thêm. Bác sĩ Goldman từ chức với lời trách móc cả hai bên đã ngoan cố cứ đi đến thảm trạng xa lánh nhau (a tragic strangement). Bực tức Johnson ra thông cáo cách chức Goldman vì cớ ông này chẳng làm được việc gì đúng lúc cả. Vừa lúc phó Tổng hống Humphrey giới thiệu giáo sư John. P. Roche đến thay thế Goldman. Lúc thi hành sứ mạng, thay vì đấu dịu, Roche đổ thêm dầu vào lửa bằng những lời công kích gần như nhục mạ:


"Bọn trí thức riêng rẽ ấy là bọn nào vậy? Phần lớn họ ở Nữu Ước làm cái nghề nghệ thuật. Họ tụ tập nhau chẳng được bao nhiêu ở Cape Cod để nhảy múa reo hò trươcó sự hoan hô của đám quần chúng dốt nát".


(Lưu ý Cape Cod là nơi giới thượng lưu nghỉ ngơi. Văn gia John O'hara có viết một tập truyện ngắn về những thảm kịch đã xảy ra ở đây. Truyện mang đề là: The Cape Cod lighter).


Tại hội nghị báo chí Liên Hiệp Quốc nói về đề tài Trí thức và vấn đề Việt Nam, Roche miêu tả người trí thức Hoa Kỳ như hình ảnh trí thức Nga thuộc thế kỷ 19 nghĩa là bọn người tự thị, tự cao, tự tô vẽ cho mình nâng lên địa vị ưu tú về văn hóa và có bổn phận bảo vệ xã hội giải quyết mọi vấn đề gay cấn. Chính bọn trí thức đó đã rùm beng chống chiến tranh, họ quan trọng hóa quá cỡ cuộc chiến, thực ra cuộc chiến đó không hơn không kém chỉ là cuộc đụng độ biên cương như nước Anh từng gặp phải ở Ấn Độ hay Nhật ở Mãn Châu.


Roche làm thế do tự ý hay Johnson muốn rửa hận? Dù thế nào chăng nữa, những lời tuyên bố của Roche được dư luận coi như lời thách thức khai chiến của chính quyền Johnson với trí thức.


Mặc dầu trên một mặt khác ông Johnson vẫn tiếp tục thi hành chính sách ve vãn bằng những mời mọc ân cần phần tử trí thức vào Bạch cung đàm đạo. Nhưng bất cứ gặo gỡ nói chuyện nào cũng thế, chỉ thấy một mình ông Johnson độc thoại, cuối cùng khi ông đặt câu hỏi: Tại sao trí thức chống ông? Ông đã làm rất nhiều cho trí thức mà? Các thực khách không trả lời thẳng câu hỏi ấy, họ cười, hoan hô bữa ăn ngon rồi im lặng. Cứ vậy kéo dài, đến ngày Tổng thống Johnson đọc diễn văn cho toàn quốc biết ông không định tái ứng cử Tổng thống lần nữa.


Bây giờ chính quyền Mỹ đã đổi tay, cuộc chiến giữa lực lượng trí thức và lực lượng chính quyền vẫn tiếp tục mà chiến trường chủ yếu vẫn còn là vấn đề Việt Nam, vì vấn đề này là nhược điểm của chính quyền Hoa Kỳ.


o0o


Không phải chỉ ở Hoa Kỳ mà thôi, vận động trí thức còn bùng nổ tại nhiều nơi khác trên thế giới như Prague, Warsaw, Rome, Mexico City, Belgrade, Tây Berlin với nhiều hiện tượng khác lạ khiến cho các nhà xã hội học nghiên cứu vấn đề phải đem xét lại nhiều định luật cũ họ đã đưa ra. Trước đây bác sĩ Keller khoa trưởng đại học đường Columbia viết:


"Marx và Lénine sẽ cười vào mũi kẻ nào nghĩ rằng cách mạng xã hội có thể khởi sự bằng lực lượng trường ốc, một nơi ẩn dật bọc ngà không súng đạn, không quyền lực, không tiền bạc".


" Nay thì cái ý nghĩ đó không đáng ngạc nhiên chút nào hết, Bộ trưởng Edgard Pisani trong chính phủ Pompidou đã nói với quốc hội như thế". Lịch sử dạy chúng ta các cuộc nổi dậy lớn lao luôn luôn dấy lên từ các giai cấp rõ rệt, đủ lực lượng quyết định như ngày xưa là nông dân, 1789 là giai cấp tư sản, thế kỷ 19 là thợ thuyền nhưng bây giờ là ở các tổ trí thức, cán bộ và sinh viên.


Pisani nói không quá đáng, cuộc nổi dậy tháng 5 bên Pháp làm cho chế độ De Gaulle lung lay rồi De Gaulle thất bại trong cuộc trưng cầu dân ý, khởi lên từ các trường đại học Nanterre, Sorbonne. Tả phái chỉ dựa vào đấy để đình công để ăn theo lợi thế sẵn có. Vận động trí thức ồ ạt lan tràn đưa vào sinh hoạt chính trị thời đại một lực lượng chính trị rõ ràng hội đủ điều kiện một giai cấp hẳn hòi. Không thành lực lượng sao được khi mà một quốc gia có tới 2000 học viện, 6 triệu sinh viên và 4 trăm ngàn giáo sư? Không thành lực lượng sao được khi con số trí thức phục vụ mọi cơ sở quốc gia nay đông gấp hơn trăm lần thế kỷ trước. Không thành lực lượng sao được khi ngân sách quốc gia tăng đến 17 tỷ Mỹ kim năm 1969 riêng cho công cuộc tìm kiếm khoa học so với gần 100 triệu Mỹ kim năm 1940.


o0o


Vấn đề trí thức là vấn đề vẫn có từ ngàn xưa, nhưng nó luôn luôn đổi mới và gắn liền với lịch sử. Có thể nói lịch sử là một đại cơ kim của trí thức và trí tuệ chúng ta. Trước đây vẫn lưu hành quan niệm diễn viến lịch sử phải theo một mô thức cố định tỉ dụ người Ấn, Ba Tư, Hy Lạp cổ cho biến hóa lịch sử là luân hồi, thiên chúa giáo cho lịch sử xoay chuyển theo ý muốn của Thượng đế.


Quan niệm mô thức cố định bị thực tế lịch sử đánh bạt dần cho đến lúc những tư tưởng lịch sử của Spengler và Toynbee ra đời người ta hẳn nhiên chấp nhận quy luật biến hình sinh-trưởng-suy-vong của lịch sử. Cộng thêm vào đó là những tư tưởng Hégel, Marx cho rằng chính con người có thể cải tạo lịch sử, chỉ có bọn nô lệ mới chịu làm bù nhìn trước lịch sử.


Biến động lịch sử tuân theo hoàn cảnh hay ý chí con người? Hỏi như thế cũng là hỏi:


Tồn tại quyết định ý thức hay ý thức quyết định tồn tại? Tư tưởng quyết định sinh hoạt hay sinh hoạt quyết định tư tưởng. Nhiều thế kỷ qua, triết học đã đáp câu hỏi này một cách ngược hẳn nhau, mỗi bên đứng về một điểm cực.


Hiện tại thực tiễn đã chứng minh lịch sử biến động do tác dụng tương hằng (interaction) giữa người với hoàn cảnh. Do tác dụng tương hằng ấy sản sinh ra văn hóa. Phương hướng và tốc độ văn hóa là kết quả của các loại nhân duyên nội ngoại của tác dụng tương hằng kia. Tổ tiên chúng ta càng về xa xưa càng chịu sự chi phối của hoàn cảnh, nhưng càng về sau con người đối với hoàn cảnh một mặt tìm cách một mặt càng ra công chống lại, tiến xa hơn còn tìm cách cải tạo và lợi dụng hoàn cảnh nữa. Văn hóa là gì? Là sự tích lũy, gọt dũa từ đời này qua đời khác những hiểu biết để hoàn thành công việc chống đối, cải tạo và lợi dụng hoàn cảnh vậy.


Ai trực tiếp đảm nhiệm công việc sáng tạo, tìm tòi xây đắp văn hóa?


Phần tử trí thức!


o0o


Vậy hành lịch sử không đi theo con đường bằng phẳng và thẳng tuột, cũng như không có những giai đoạn nhất định (như kiểu Marx chủ trương). Các nhân tố hữu lợi, bất lợi luôn luôn can thiệp làm cho cuộc vận hành tăng, giảm, thừa, trừ.


Nói riêng mặt chủ quan, khi nào văn hóa tích súc, nội bộ hài hòa thì mới sản sinh ra quốc lực hùng mạnh tấn bộ tốt đẹp. Khi nào tự mãn, cô lập, lười biếng, đồi trụy tất nhiên lịch sử đi vào suy vong. Theo với tăng giảm thừa trừ của vận hành lịch sử là những vận động của phần tử trí thức.


Như thế nói lịch sử mà không nói đến vận động trí thức, nói chính trị mà không đề cập đến cuộc đấu tranh của phần tử trí thức thì thật là một thiếu sót lớn.


Hoặc tìm xét quan hệ giữa phần tử trí thức với lịch sử với chính trị chỉ bằng ánh sáng của lý luận thời thế với anh hùng hay bằng thành kiến tú tài tạo phản tam niên bất thành thì vẫn chưa thật đầy đủ.


Ta có thể khẳng định, một cuộc cách mạng xã hội có nghĩa là một thay đổi tương đối nhanh chóng trong sự kết hợp thành phần và cơ cấu phần tử trí thức cùng mối quan hệ của phần tử này với quảng đại quần chúng vậy.



Nguồn gốc của danh từ



Phần tử trí thức là trực nghĩa dịch từ chữ Intelletuel của Pháp. Tra tự điển để tìm lời giải của chữ đó thì chỉ thấy ghi vắn tắt: phần tử trí thức là người hoặc vì thị hảo hoặc vì nghề nghiệp quan tâm đến những công việc tinh thần. (Personne qui s'occupe par goũt ou par profession des choses de l'esprit). Theo Hồ Thu Nguyên viết trong tập Trung Quốc cổ đại trí thức phần tử thì phần tử trí thức là những người hiểu trước biết trước (tiên tri tiên giác) rồi đem sự hiểu biết học hỏi của mình sống hiến cho tiến bộ nhân loại xã hội dân tộc. Nói chung người sáng tạo tư tưởng kỹ thuật, tri thức gọi là phần tử trí thức.


Cổ xưa Hy Lạp dùng danh từ trí giả (sophist) hay ái trí giả (philosopher). Người La Mã dùng danh từ văn sĩ (idéologue). Ở Trung Quốc có nhiều danh từ khác nhau để chỉ phần tử trí thức: Nhi\o, Sĩ, Thánh, Hiền, Văn nhân Học sĩ rồi gộp chung lại dưới danh từ người đọc sách (độc thư nhân).


Người trí thức rất khó có một hình dạng rõ rệt, nếu bảo những người có bằng cấp là trí thức thì những người tự học (autodidacte) thì sao? Vả lại các bậc Thầy của nhiều thuyết lớn xưa nay đa số chẳng có bằng cấp chi hết. Cũng không thể bảo nhất định một ông giáo sư đại học trí thức hơn ông giáo sư trung học v.v…


Hình dạng người trí thức lại càng không rõ rệt khi người ta muốn tìm nó thuộc giai cấp nào? Mức sống ra sao? thường làm nghề nghiệp gì? Bên Pháp chẳng hạn đa số chấp nhận phần tử trí thức quy tụ vào hai loại hình (type).


a- Trí thức giáo dục (intellectuel enseignant)


a- trí thức viết văn (intellectuel écrivant)


Nhưng vẫn có một số người không chịu, và cho rằng những bác sĩ kỹ sư làm nghề chuyên môn của mình vẫn có thể là một phần tử trí thức chớ. Tại các nước chậm tiến tùy theo trình độ có nơi với sức học bổ túc đã được kính trọng tôn xưng là phần tử trí thức rồi.


Câu hỏi ai được kể làm phần tử trí thức là câu hỏi khá phức tạp đã làm rức đầu các sử gia và các nhà xã hội học không ít, rút cục đến bây giờ họ vẫn phàn nàn chưa tìm được một thực thể cho trí thức (substantifier).


Nhưng về đời sống của người trí thức thì rõ rệt nó liên quan rất nhiều đến chính trị. Tại Âu Châu nó ra đời bởi một vụ chính trị sôi nổi. Các nhà văn Emile Zola, Anatole France, Halévy, Buinot, Léon Blum v.v… ký chung bản kháng nghị đối với vụ sử oan đại úy Dreyfuss. Thủ tướng Clémenceau đã gọi kháng nghị này là Tuyên ngôn của trí thức (manifeste des intellectuels). Từ đó chữ intellectuel được mọi người thưởng thức, nó được kể như một danh từ mới mẻ vì danh từ này không hề thấy ghi trong tự điển Larousse in năm 1866-78 hay cuốn đại bách khoa in năm 1885-1902, người ta chỉ thấy chữ intellectuatisme ghi trong cuốn Vocabulaire philosophigue của Lalande mà thôi. Như vậy là chữ phần tử trí thức khai sinh bằng một thái độ chính trị. Edgar Morin đã nghĩ rất đúng khi viết câu này:


Nhà văn viết cuốn tiểu thuyết là nhà văn, nhưng khi ông ta nói về những tra tấn đau khổ ở Algérie thì ông ta là một người trí thức.


(L' écrivain qui écrit un roman est écrivain, maiss' ilparle de la torture en Algérie, il est intellectuel).


Phương Tây như thế, phương Đông cũng vậy, theo tâm lý cổ truyền của người Trung Quốc thì những danh từ có chứa chất tính cách về trí thức thường dành cho những người có sự nghiệp tốt. Tỉ dụ gọi vua Nghêu vua Thuấn là Thánh Vương, bọi các tể tướng Quản Trọng, Lưu Bá Ôn, Ngụy Trưng v.v… là Hiền.


Tất nhiên Nghiêu, Thuấn, Quản Trọng, Lưu Bá Ôn, Ngụy Trưng là những người học vấn cả thì không nói làm chi. Đến như Triệu Phổ suốt đời chưa đọc hết quyển sách rưỡi cũng được gọi là hiền trong khi Trần Hậu Chủ, Thạch Kính Đường, Tần Cối đều là các tay học vấn cự phách mà người đời sau chỉ nhắc đến với ý niệm ghét bỏ hôn quân, gian thần Hán gian. Còn các bậc vạn thế sư như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Đào Uyên Minh, v.v… thì trên dưới một lòng yêu kính.


Từ lâu người phương Đông yêu kính phần tử trí thức ở sứ mạng kỹ sư tâm hồn, kiến trúc sư lụch sử và giồng cấy văn hóa nghĩ là những phần tử trí thức có liên quan đến chính trị.



Khởi điểm



“Weber là một khoa học gia, ông chưa hề làm chính trị hay đã là một chính khách, chỉ đôi ba lần viết báo chính trị thôi. Thế nhưng suốt cả đời ông, ông rất say mê lo lắng tới vấn đề của quần chúng, không lúc nào ông nguôi nỗi nhớ nhung chính trị”.


Trên đây là tâm sự Max Weber do Raymond Aron nhận xét. Tâm sự đó cũng là tâm sự chung của hết thảy phần tử trí thức dưới vòm trời này. Thật vậy trí thức thường là những người quên không được chính trị. Họ luôn luôn có mặt ở tầng lãnh đạo (tầng lãnh đạo thống trị cũng như tầng lãnh đạo cách mạng) mà đã ở tầng lãnh đạo thì điều phải nghĩ trước hết hẳn là chính trị. Đối tượng của trí thức là hiện tượng nhân sinh, chính trị, xã hội, giáo dục, văn nghệ. Trong tất cả chính trị được chú ý bậc nhất, gần như có thể nói rằng sự nhảy vào tham dự chính trị là con đường hiệu lực nhất cho hoài bão lý tưởng đối với xã hội nhân sinh. Bởi lẽ ấy Khổng Tử không bao giờ ngồi nóng chiếu, ông đi khắp nơi để mong dùng thuyết của ông nắm chính quyền. Ông Mặc Tử, Mạnh Tử bôn tẩu liệt quốc. Việc giảng học viết sách của các vị này bất quá chỉ là công tác làm sau khi không được thi triển ý của mình bằng chính quyền, và giảng học trước thư cũng vẫn là sự tiếp nối nghiệp chính trị và đã đào tạo biết bao chính khách sau này. Ngay đến Lão Đam, Trang Chu nổi tiếng với triết thuyết vô vị ẩn dật cũng không quên được chính trị bằng những lời công kích tiêu cực đối với chính trị. Ông Trần Trọng Tử ẩn tích mai danh nơi hoang dã nhất định không ngó ngàng đến chính trị, nhưng chính ông cũng phải thừa nhận nếu không nhảy lên vũ đài chính trị thì khó lòng mà thực hiện nổi hoài bão lớn đối với xã hội nhân sinh. Ông Nguyễn Trãi theo cha lên biên ải, cha quay lại nói: Nếu con muốn trả thù nhà thì hãy tìm cách trả nợ nước.


Trí thức là vũ khí để loài người chống lại hoàn cảnh. Trí thức tức là quyền lực. Khi đã gọi là quyền lực thì phải làm sao sử dụng được quyền lực đến mức tối đa. Trong cuộc sống xã hội, chính trị bao trùm lên tất cả các sinh hoạt khác, chính trị là công việc toàn chỉnh (la politique est une affaire de tous), chính trị là hoạt động tinh hoa của con người, chính trị là sự sống của xã hội. Cho nên khi người trí thức không lưu tâm đến chính trị là lúc ấy họ đã tự khước bỏ phần lớn đời sống trí thức. Joseph Shumpeter viết: Người trí thức ở khắp mọi nơi, họ nhận nhau qua một thái độ nào đó, chớ họ chẳng hề có chung một quy chế, tinh thần của họ tạo thành mối ràng buộc.


Thái độ ở đây là thái độ đối với chính trị vì chỉ có chính trị mới mang khuôn khổ rộng lớn thôi. Quái gở đến mức nào đây, nếu một người trí thức không mang một thái độ chính trị gì hết.



Phẩm đức giá trị và thân phận



Đứng trên chính trị mà nhìn nhận trí thức phần tử người ta phải nhìn tách biệt ba mặt:


a/ Phẩm đức


b/ Giá trị


c/ Thân phận


Phẩm đức của trí thức là gì? Hãy nghe, nhóm ông Đoàn Phu Tứ định nghĩa:


Trí thức tức sáng suốt, tức tự do toàn vẹn của tinh thần tức biệt lập của tinh thần tức biệt lập cái biệt lập của áng danh son tức thanh cao cái thanh cao không đổi dời của kẻ sĩ, cái thanh cao không vụ ích lợi của ngọc châu.


Trí thức là sáng tạo. Cuộc sáng tạo đầu tiên của trí thức là tự tạo. Tự trong một đợt tình trác tuyệt, khi hồn tan trên một nét anh đào.


Tự tạo trong một thế hệ nhập thiền, trong một đường thánh giá.


Tự tạo trong một ngọn gió đùa, trong một cành hoa nắng dỡn.


Trí thức là tinh thần tiên phong. Cốt cách tài tử.


Cá tính độc lập. Phong độ trượng phu.


Không hề trưởng giả nhưng vương giả.


Không lo thành đạt, nhưng bao giờ cũng thông đạt.


Không làm thượng nhân, nhưng làm tao nhân.


Phẩm đức của phần tử trí thức nói theo lý tướng thực là viên ngọc không tì vết. Tuy nhiên không phải cứ có phẩm đức là có luôn giá trị. Trên chính trị, phẩm đức, giá trị và thân phận của người trí thức là ba vấn đề tách biệt nhau. Đó là cái lý do tại sao đôi lúc người ta phải nhận rằng người trí thức không bằng cục cứt là đúng.


Phẩm đức là lương tâm người trí thức không vào con đường phản chính nghĩa, phản động, không làm tay sai cho ác thế lực.


Giá trị là khả năng người trí thức, phải có cái biết có thể biến thành quyền lực, bởi vì khi dấn thân vào thực tế tàn nhẫn, khả năng là điều kiện không thể thiếu được.


Thân phận trí thức sẽ tùy sự lựa chọn lý tưởng với thực tế, tùy sự yếu kém, phẩm đức hay giá trị, tùy theo sự mâu thuẫn giữa phẩm đức và giá trị mà biến đổi.



Quên không được chính trị



Một khi đã say mê chính trị và nhận chính trị như người tình không thể thiếu được thì lúc tuyệt vọng với chính trị người trí thức như mất hết lẽ sống. Cái chết của Khuất Nguyên là điển hình khai mở cho thân phận trí thức với chính trị.


Kể trong các nhà thơ lớn của Trung Quốc thì:


Đỗ Tử Mỹ, người đời xưng tụng là thi thánh.


Lý Thái Bạch là thi tiên.


Vương Ma Cật là thi Phật


Lý Trường Cát là thi quỷ


Đỗ Tử Mỹ thuộc phái tả thực.


Lý Thái Bạch thuộc phái lãng mạn.


Vương Ma Cật thuộc phái tự nhiên.


Lý Trường Cát thuộc phái duy mỹ.


Tất cả các phái trên đều có chung một nguồn là Kinh Thi và tập thơ Ly Tao của Khuất Linh Quân tức Khuất Nguyên. Lý Tao có một ngôi vị cao nhất trên thi đàn Trung Quốc, tập thơ ấy được coi như vị vua hay bài ca trong các bài ca, hay nhã ca là cái đẹp tuyệt độ không thể đẹp hơn nữa.


Ly Tao là gì? Là nỗi buồn ly biệt. Nỗi buồn ly biệt với chính trị. Khuất Nguyên sáng tác tập thơ này khi bị Sở Vương đuổi lần thứ hai. Lần ông về Giang Nam, nơi có rất nhiều cảnh sắc riêng biệt của nước Sở, những cánh đồng cỏ bao la xanh ngắt, chim oanh bay từng đàn. Giang sơn Sở càng đẹp càng làm cho Khuất Nguyên lo lắng, ông biết cường Tần thế nào cũng xâm lượng Giang Nam, cái đẹp kia sẽ ra sao nếu gót giầy xâm lược dẫm lên, bao nhiêu vui ca rồi đây sẽ thanh hoang phế điêu tàn. Nhưng làm thế nào gọi tỉnh được người Sở đang ở trong cơn mê muội. Trong triều toàn một bọn nịnh thần, nơi điền dã chưa ai biết nỗi thống khổ mất nước. Còn phận mình lại chỉ là một kẻ vong thần, cô lập, bị lưu đày. Ông tự nghĩ tâm linh trung kiên khả dĩ tiến đến chân lý. Tuy vậy chân lý của một người thì làm sao chống lại với cái hư ngụy của số đông? Chân lý với gian tà, tinh khiết và sú uế lẫn lộn làm rối loạn cõi trần thế. Bỏ trần thế mà đi bỏ không đành. Vất chân lý ra khỏi tâm hồn, vất không nỡ. Khuất Nguyên vùng vẫy trong tuyệt vọng giống như con thiên lý mã bị sa vào cát lầy.


Có lần ông hỏi Trịnh Thiềm Đoãn:


“Thưa Thái phó, trung với tà, thiện với ác, chân lý với hư ngụy, trinh khiết với sú uế có thật là không thể sống chung với nhau chăng? Tôi rất yêu nhân gian mà tôi cũng rất thù hận nhân gian, tôi phải chọn điều nào đây? Tôi nên giữ tấm lòng trinh khiết để tự cô lập bằng thái độ cao thượng hay tôi nên hòa mình với số đông tùy tục phù trầm theo thời thế?


Trịnh Thiềm Đoãn nói:


“Thức đại phu, xin ngài hãy làm theo tâm ý của chính ngài, tôi làm sao hồi đáp được vấn đề quá to tát như vậy.


Ít năm sau, binh Tần mang quân công hãm Sở quốc, Sở mất nước, nhân dân Sở lầm than. Khuất Nguyên nhìn nước non gấm vóc, đâu đâu cũng chỉ thấy hoang loạn, đâu đâu cũng đầy vết tích diệt vong. Đau nhục, Khuất Nguyên thả chiếc thuyền nhỏ trên động Đình Hồ mặc sóng gió giận dữ. Ông thầm nghĩ: ta phải chết, ta phải có một cái chết lỗi lạc. Chết không để giải thoát mà chết để phản kháng. Phản kháng tà ác gian nịnh trên thế gian này. Hỡi người nước Sở thân yêu, người nước Sở đáng thương, tại sao các người không tiếp nhận tấm lòng thành của ta? Tại sao không chịu hiểu nỗi trinh kiên âm thầm của ta?


Nước non ơi, những bài ca u hoài của nhân dân nước Sở, người có biết sự hung bạo của vó ngựa xâm lăng bạo Tần không? Trời xanh hỡi quả thật có chính nghĩa không? Tại sao không lưu lại cho nhân gian nhất điểm chính nghĩa? Các thần linh của Sở quốc! Các người nhẫn tâm để cho dân Sở bị dày xéo bị diệt vong ư? Không thể thế được, nhân dân Sở không thể tiêu diệt, giang sơn Sở không thể bị nô lệ. Cái lỗi của Khuất Nguyên là đã để mọi người say mà riêng mình tỉnh.


Qua động Đình Hồ, Khuất Nguyên cho thuyền rẽ vào sông Mịch La, nước mắt tràn trụa, ông lặng yên nhìn mây trời mông mênh hồi lâu rồi lao mình xuống sông. Ông đi tìm cái chết vì sinh mệnh của ông từ lâu đã mất rồi, sinh mệnh ấy là sinh mệnh chính trị.



Phẩm vị của phần tử trí thức



Sinh mệnh của một quốc gia ở văn hóa học thuật của quốc gia đó. Sinh mệnh lực của một quốc gia đại bộ phận do phần tử trí thức nắm giữ. Sự sinh tồn và tiến bộ của đất nước do nơi tôn trọng học vấn, do nơi phần tử trí thức trong xã hội có trách nhiệm và tự tôn tâm hay không.


“Hiếu học cận hồ trí”. Chuộng sự học vấn, tôn trọng người đọc sách là căn bản xây dựng đất nước. Trường học bao giờ cũng là cơ sở của chính trị. Nước văn hiến là nước tôn trọng học vấn, yêu chuộng trí thức, nước văn hiến là nơi thường có hiện tượng “cường đạo không xâm phạm người đọc sách” như giặc Hoàng Cân không đốt phá quê hương ông Trịnh Huyền. Hoàng Sào không giết các nho sinh.


Tôn trọng người có học và trí thức có lòng tự tôn không phải là tâm lý tự cao tự đại của phần tử trí thức. Ở nước ta xưa sĩ đứng đầu hàng tứ dân nên có câu “sĩ, nông công, thương và ngư, tiều, canh, độc”. Học vấn là nền móng của tất cả mọi nghề nghiệp. Tôn trọng người đọc sách tuyệt nhiên không phải là bảo trì địa vị hay giai cấp đặc thù mà là tôn trọng học vấn và trí thức, nghĩa là tôn trọng hai thứ vũ khí hiệu lực nhất để cải tạo sinh hoạt, cải tạo xã hội và cải tạo quốc vận.


Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao. Cao đây là cao phẩm giá không phải cao quyền thế hay cao tiền bạc.


An đắc quảng hạ thiên vạn gian.


Đại tì thiên hạ hàn sĩ tận hoan nhan.


(nghĩa là: mong mỏi sao cho có căn nhà lớn hàng trăm ngàn gian, để che chở cho kẻ hàn sĩ trong thiên hạ ai ai cũng mang vẻ mặt hân hoan). Câu thơ của Đỗ Công Bộ nói rõ lên cảnh nghèo của kẻ sĩ. Cụ Nguyễn Khuyến cũng có bài phú để tả tình trạng thầy đồ:


Vài khoa thi hỏng xót ruột tiềncơm, mấy tháng công non bấm gan thóc nợ.


Vách ông Khổng còn hòm khoa đẩu mở một vài con ngõ thầy Nhan treo túi đan biều bảo dăm ba đứa.


Nón sơn úp ngực đi liểu đi liều , bút thùy cài tai sơn sơ sớn sở.


Nghĩ sểnh nhà ra thất nghiệp, cũng bật như cười e nằm mát ăn bát đầy ai nuôi không hở.


Nhan Hồi được tôn lên hàng nhân vật điển hình của chủ trương an bần lạc đạo do Nho gia đề xướng. Ngụ nơi ngõ hẹp, một lẵng cơm, một bầu nước, người đời lo còn Hồi thì lúc nào cũng vui. Người trí thức thường nghèo, tuy vậy không phải cứ nghèo mới là tốt. Khổng Tử có lần nói: “Nếu cái giàu mà có thể cầu được thì dù làm một kẻ cầm roi ngựa ta cũng làm”. Rồi ông nói thêm: “cái phú quí bất nghĩa đối với ta chẳng khác gì mây nổi, người quân tử kiên trì với cảnh nghèo, kẻ tiểu nhân hễ nghèo là kiếm cách làm bậy”. Thực tế hơn, Mạnh Tử cho rằng: “nghèo khổ đến với kẻ sĩ là bởi trời muốn thử thách, dùng nghèo để động tâm nhẫn tính, dùng khổ để tăng thêm tài năng”.


Nói chung chữ trí thức trong tâm tưởng mọi người hình như nó mang một thứ phép nhiệm màu làm cao giá người được nó nhận, ai ai cũng muốn nó đến với mình ngay. Lúc người ta mang gán nó cho kẻ khác với chủ ý chế giễu hay công kích mà sâu kín trong lòng lại thấy tủi hổ nếu nó từ chối mình. Nghĩ đến trí thức, mọi người đều cảm nhận ở nó một cái gì gọi là tao nhã và cao quí.


Chính vì thế nên xưa kia tể tướng Cao Lực Sĩ mới phải mài mực cho Lý Thái Bạch viết vào bài thơ của họ Lý bài thơ ca tụng cái đẹp của Dương Quý Phi, cao hứng rồi giả say Lý Thái Bạch dơ chân đạp cho Cao Lực Sĩ ngã lăn. Đời sau nghe chuyện chẳng người nào không thích thú, thích thú như một người được hả cơn giận.


Nếu tham vọng chính yếu của phần tử trí thức là tham vọng trị quốc bình thiên hạ thì ngược lại tham vọng chính yếu của các chính khách là tham vọng muốn tỏ ra mình là trí thức. Raymond Aron rất có lý khi viết câu này: Tham vọng chính trị của các nhà văn thành công đã đụng đầu với những tham vọng văn chương của các chính khách. Người thì mơ viết một cuốn tiểu thuyết tuyệt tác, người thì mơ làm bộ trưởng.


(Les ambitions politiques des romanciers à succès se heurtent aux ambitions littéraires des hommes d’État Ceux ci rêvent d’écrire et ceux là de devenir ministres)



Ít nhiều khác biệt giữa Đông và Tây



Trí thức Đông và Tây đều không quên được chính trị.


Trí thức Đông và Tây đếu vào chính trị bằng con đường yêu nước và cách mạng.


Ở lòng yêu nước họ gặp nhau, nhưng ở cách mạng họ có điểm khác biệt. Khác biệt bởi hai nền văn hóa.


Trở về với thần thoại, Prométheé sau một trận giặc nhất định không đứng về phe người trời olympien nữa, Prométheé muốn ngả về phe người trần. Để cho loài người mạnh lên, Prométheé thấy lửa sấm sét của Jupiter là thứ vũ khí lợi hại nên quyết lấy cắp lửa mang xuống cho loài người. Từ đấy nhờ Prométheé mà loài người có lửa dùng. Jupiter biết giận lắm cho gọi thần thợ rèn Vulcain đến bắt Prométheé và cùm ở chân núi Caucase. Chưa nguội Jupiter còn thả chim ưng hằng ngày đến moi ruột rỉa gan Prométheé. Hết năm này qua tháng khác, đau đớn Prométheé kêu gào vang động.


Đời vua Nghiêu, có tới mười mặt trời thiêu đốt nhân gian khiến mùa màng khô héo, sông nước cạn. Vua cho rao khắp thiên hạ cần người hiền tài đến giúp. Có Hậu Nghệ bắn cung cực giỏi. Hậu Nghệ lên một đỉnh núi cao chót vót giương cung bắn chín lần chín mặt trời rơi xuống đất. Từ đấy ở trần gian sông hồ lại đầy nước, cây cỏ tốt tươi.


Ngay thời kỳ thần thoại, đông phương đã kiến thiết rất vững chắc tinh thần nhân văn. Prométheé mới chỉ phạm tội ăn cắp chút lửa trời mang xuống nhân gian mà đã phải chịu một hình phạt nặng đó. Trái lại Hậu Nghệ đã nhân danh loài người đánh bật những ác độc của thượng đế.


Sau này Tây phương một thời gian khá dài bị úp chụp trong vòng kiềm tỏa của tôn giáo. Điều này tạo nên điểm khác biệt cho vận động trí thức của Tây phương với Đông phương (khu vực văn minh Trung Quốc).


Với quan niệm đại tự nhiên của chủ nghĩa nhân văn, mọi cuộc đấu tranh lịch sử đều là quy luật đại tự nhiên hết Xuân sang Hạ, hết Thu sang Đông thuận lẽ trời. Lẽ thuận tự sẽ thực hiện trong xã hội nhân loại khi nào đa số đồng ý gọi là hợp lòng người. Cho nên những biến động lịch sử thường mang tiêu đề: diệt kẻ vô đạo mà không bao giờ có tiêu đề dành Tự Do.


Trái lại, ở phương Tây mỗi biến động lịch sử đều chịu ảnh hưởng của hai thế lực Thế quyền và Thần quyền. Kẻ thống trị phải có thỏa thậun của giáo hội. Hết thảy quyền phán xét bất cứ mặt nào của sinh hoạt của sự sống đều phải dành cho giáo quyền. Những cấm điều do giáo hội đưa ra làm thành chuỗi xích nặng nó trói buộc con người. Muốn lật đổ chính quyền phải đủ khả năng lật đổ thống trị tâm lý tinh thần của giáo quyền nếu không thì biến động chỉ loanh quanh trong cái vòng luẩn quẩn giữa âm mưu của các lực lượng khác nhau trong chính quyền và giáo quyền nghĩa là quí tộc phong kiến và tập đoàn tăng lữ. Vận động trí thức vì lẽ trên phải trải qua giai đoạn đấu tranh giải phóng tư tưởng chống thần quyền mà Tự Do là tiêu đề. Tự do mang một ý nghĩa thiêng liêng trong tâm khảm của người Tây phương.


Tinh thần người trí thức của chủ nghĩa nhân văn Nho đạo là: Giáo hóa quốc dân đoàn kết quốc dân, bảo vệ giang sơn mang trách nhiệm tâm cực lớn phấn đầu cho lợi ích bình dân, có một tấm lòng tự tôn mãnh liệt để phấn đấu cho địa vị của phần tử trí thức. Đề cao địa vị trí thức không phải là đề cao lợi ích vật chất và quyền hành bản thân mà là dùng trí lực để áp đảo vũ lực, cùng kim lực của quý tộc, đề cao địa vị bình dân là đem học vấn ra làm công cụ xây dựng hạnh phúc cho bình dân.


Phong độ người trí thức của chủ nghĩa nhân văn Nho đạo là : Nho và Hiệp.


Ông Cao-Dao đưa ra chín nguyên tắc cho việc tu thân:


Khoan thứ mà không để thành hỗn loạn.


Mềm dẻo mà vẫn vững lập trường.


Căm giận nhưng không mất vẻ khiêm cung.


Hòa đồng nhưng vẫn nghiêm nghị.


Thẳng băng mà vẫn ôn nhu.


Giản dị và liêm khiết.


Cứng rắn m à vẫn khéo léo.


Mạnh bạo nhưng không bất nghĩa.


Khổng Tử nói nho sĩ phải là người có đủ ba tầng nhân cách:


1) Trách nhiệm tâm (người quân tử tu thân mình để bảo vệ người và trăm họ)


2) Tự tôn tâm (không lo, không sợ, không lầm lẫn)


3) Dũng cảm


(Trong thiên Nho hạnh của sách Lê ký Khổng Tử luận phong độ nhà Nho như sau: thân có thể nguy mà chí không thể đoạt, chịu chết chứ không chịu nhục)


Ngoài ra phải kể thêm cả trạng thái tiêu cực của cả Nho lẫn Hiệp là Ẩn. Mỗi lúc thấy thời thế hỗn loạn nhiễu nhương chưa thể làm gì cứu đời giúp nước thì ở Ẩn.



Thượng Khuynh Tính



Tính thượng khuynh là một biến tướng của tinh thần và phong độ nói trên.


Có hai nguyên nhân:


Thứ nhất: Do chế độ thi cử khai khoa thủ sĩ, học giỏi ra làm quan.


Thứ hai: Quan niệm trị quốc bình thiên hạ cần ở ngôi vị cao, ảnh hưởng chính trị từ thượng tầng xã hội đi xuống mạnh hơn ảnh hưởng từ hạ tầng xã hội đi lên.


Thượng khuynh tính là gì?


Là chỉ chăm chú tranh dành tước vị.


Vì chăm chú tranh dành tước vị cho nên phần tử trí thức thường phải dựa dẫm vào bọn đạt quan quí nhân để làm bước thang tiến thân. Văn hay chữ tốt nhưng chỉ là công cụ của bọn hào quí.


Nhan Chi Suy viết gia huấn lưu lại cho con cháu đã hết sức thống mạ tính thượng khuynh qua nhân vật Trần Lâm. Ông nói người quân tử tuyệt giao không khi nào gây tiếng ác một ngày kia quỳ gối thờ người thật là một điều sỉ nhục. Trần Lâm ở với Viên Thiệu thì mắng Tào Tháo là lang sói, sang với Tào Tháo thì lại chửi Viên Thiệu là cua cáy. Tình cảnh ấy thật đáng lo cho văn nhân vậy. Do tâm chất thượng khuynh quá mạnh nên phần tử trí thức đành cam chịu cảnh:


Tung hoành chính hữu lăng vân bút.


Thủ ngưỡng tùy nhân diệc khả lân.


(Bút pháp tung hoành át cả mây trời.


Thấ mà phải cúi đầu theo người thật đáng thương).


Tính thượng khuynh vào cách mạng đã tạo nên người cách mạng kiểu Nguyễn Hữu Cầu chứ không tạo nên mẫu người như Robespierre, nghĩa là cách mạng để đoạt ngôi vị không có cách mạng theo đuổi một lý tưởng một ý hệ một chủ nghĩa cách mạng, để thay đổi hoàn cảnh cá nhân không phải cách mạng cho một quan niệm sống.


Tư tưởng cách mạng của Nguyễn Hữu Cầu là làm loạn đã nảy sinh từ lúc ông còn đang đi học qua những lời đối đáp với thầy học:


Nếu Trần Bình làm tể tướng.


Ai cấm Hàn tín xưng vương.


Nằm thì bốn phương yên gối chiếu.


Dậy thì thiên hạ sướt thịt da.


Nguyễn Hữu Cầu có người bạn học ngang tài mình là Phạm Đình Trọng. Bước ra đời Trọng vì là danh gia tử đệ nên bước vào chính quyền rất dễ dàng. Cầu với gốc tích dân dã chài lưới đương nhiên Cầu phải đi vào chính quyền bằng ngả khác. Khi nghe tin Tuyển Cừ nổi lên ở Chí Linh Cầu liền theo giúp. Thanh thế Cầu về sau mỗi ngày thêm lừng lẫy tự xưng là Đông đạo tổng quốc bảo dân đại tướng. Cho đến lúc hoàn toàn thất bại, suốt quá trình khởi loạn của Cầu chỉ theo đuổi mục đích:


Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa nhập vi vương (Chữ ngọc dấu đi nét chấm, thò lên thì là Chủ thụt xuống là chữ Vương).


Thua trận bị bắt nhồt trong cũi Cầu có mấy câu thơ sau đây:


Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán.


Phá vòng vây bạn với kim ô.


Giang sơn khách diệc tri hồ.


Những câu thơ ấy ngụ ý mong mỏi thoát thân hơn là ngụ ý mong một lý tưởng tự do.


Trái lại Robespierre chịu ảnh hưởng tư tưởng Rousseau lúc nào cũng say sưa với hoài bão thực hiện tư tưởng Rousseau kể cả lúc ông ở địa vị cao nhất chính vì quá khích với tự do Robespierre đã trở thành nhà độc tài của Tự Do, rồi hoài bão ấy cũng đưa ông lên máy chém.


Bởi tính chất thượng khuynh quá mạnh nên Thi Nại Am đã không thành công về sự miêu tả nhân vật Ngô Dụng một phần tử trí thức trên Lương Sơn Bạc.


Chế độ thi cử với phương châm học nhi ưu tắc sĩ (học giỏi ra làm quan). Triều đình căn cứ vào thi phú mà tuyển người nên ai nấy sống chết với văn thơ.


Thiên tử trọng anh hào.


Văn chương giáo nhi tào.


Biết nhân hoài bảo kiếm.


Ngã hữu bút như đao.


(Nghĩa là vua quí trọng kẻ anh hào. Văn chương ta đem vậy các anh thậy kệ người kia mang bảo kiếm. Ta có cây bút sắc kém chi dao).


Với quan niệm ấy, phần tử trí thức dần dần không coi tinh thần hiệp là yếu tố căn bản của phẩm đức nữa. Cái tâm hùng vạn phu của Lý Bạch chẳng còn, chỉ thấy cái mặt trắng của thư sinh trói gà không chặt, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.



Chủ Nghĩa Nhân Văn Đại Tự Nhiên


Và Chủ Nghĩa Nhân Văn Tự Do



Nền tảng văn hóa và văn minh của T.Q. là nền tảng văn hóa văn minh nông nghiệp nên lý luận cơ sở nó là lý luận đại tự nhiên. Phần tử trí thức trải nhiều ngàn năm tuy có chuyển mình nhưng cũng vẫn ở trong cái vòng đại tự nhiên ấy thôi.


Trong thi ca của Đào Uyên Minh người ta tìm thấy khá đầy đủ lý luận đại tự nhiên này.


Vũ trụ quan của ông như sau:


- Trời đất không bao giờ diệt, sông núi chẳng bao giờ dời đổi.


- Vũ trụ vô tư, vạn tượng tự lý (vũ trụ không biết thiên tư muôn ngàn hiện tượng đều tự xếp đặt lấy).


- Bốn mùa thứ tự đổi thay, phó cho tự nhiên.


Về xã hội quan ông nghĩ:


- Mấy mẫu ruộng với gian nhà cở, một rặng liễu rủ một lũy tre xanh, vài khóm hoa nở, làn khói lam mờ, tiếng gà gáy sáng, ít người nông dân hiền lành.


- Hòa với tự nhiên khai khẩn lao tác tìm cái sống.


- Sinh hoạt cốt sao cho thích ý hãy vui cho hết ngày hôm nay, ngày mai chưa cần gì vội.


Về nhân sinh quan ông nhận định:


- Vui với thiên nhiên.


- Thuận với thiên nhiên.


Đại tự nhiên là chân lý đã sẵn có trước mắt. Tại Tây phương không như vậy, trong thời gian khá lâu, tôn giáo Ki Tô giam buộc con người theo đuổi mục đích phượng thờ thượng đế, không có gì thành tựu ngay trên trần tục này hết, sinh mệnh con người sẽ hoàn thành sau khi chết lên thiên đàng hay xuống địa ngục. Bởi thế phần tử trí thức phải đấu tranh giải phóng khỏi sự giam buộc đó bằng cách tìm tòi chân lý và đòi tự do.


Chủ nghĩa nhân văn phương Tây kiến lập trên hai hoạt động này cho nên phẩm đức trí thức là phẩm đức của một chiến sĩ tha thiết với tự do. Họ không bao giờ chịu thuận với thiên nhiên hay vui với thiên nhiên. Họ không vui khi được sống, họ muốn suy tư và phê phán sự có mặt của họ trên cõi đời này. (Ilsne se contentent pas de vivre, ils veulent penserleur existence-Raymond Aron).


Để chứng minh vũ trụ Lodge phải do Thượng đế làm ra trong bảy ngày mà vũ trụ tạo dựng với quy luật vật lý. Copernic đưa ra lập luận trái đất quay chung quanh mặt trời Giáo hội liền bắt giam. Bruno tiếp tục công việc của Copernic bị giáo hội kết tội phù thủy đưa lên giàn thiêu. Galilee không sợ uy lực ngang nhiên theo gót Bruno.


Những thảm kịch của Corneille đều là thảm kịch của Tự Do (drame de la Liberté). Con người không lúc nào ngừng tìm đến tự do. Trong cái tuyệt đối của


Noirceuil kết tội Thượng đế là tên sát nhân, như vậy tất cả những điều lệ của Thượng đế đặt ra từ trước đến giờ đều vô giá trị, như vậy chỉ có lòng ham muốn của chính ta là đáng kể. Sade đi đến chỗ điên cuồng gào thét giết người để thực hiện tự do. Để chống với tín điều trinh bạch (chasteté) của Ki Tô giáo, Sade cổ vũ sự cuồng phóng lòng dục. Ảnh hưởng Sade ngày nay rất lớn đối với phong trào Hippies hay người hoa (flower people) đang bành trướng. Hippies ngày nay không chống Thượng đế nữa mà chống cái nghẹt thở của xã hội hậu công nghiệp vì hệ thống tổ chức quá chặt.



o0o



Dostoievsky hô lên: Tout est permis (Tha hồ hành động) bởi vì Thượng đế và bất diệt là láo nên bây giờ con người chính là Thượng đế.


Tha hồ hành động mở đầu cho trang sử của chủ nghĩa hư vô cận đại (nihilisme contemporaine).


Chủ nghĩa hư vô chẻ làm hai ngả.


a) con người làm Thượng đế bằng “logigue”.


b) con người làm Thượng đế bằng ý lực siêu nhân.


Ngả siêu nhân đã sản xuất ra chế độ Quốc Xã.


Trước hết hãy nói về cố gắng siêu nhân.


Năm 1884 Frederic Nietzsche ra đời. Ông trở thành triết gia danh tiếng với thuyết ý chí quyền lực và siêu nhân theo Nietzsche: “Tất cả mọi đam mê đều đưa con người đến một cái gì. Đam mê có thể tàn phá những kẻ yếu hén nhưng đam mê lại thêm sức mạnh cho người dũng cảm. Tội lỗi đức hạnh không tạo ra quyền uy hay sa đọa mà chính quyền uy hay sa đọa tạo ra đức hạnh hay tội lỗi. Thượng đế chết rồi. Trên trái đất chỉ còn lại những siêu nhân. Nếu được làm siêu nhân dù giây phút thôi tôi cũng cam chịu tất cả. Những điều Nietzsche nói trong tác phẩm ảnh hưởng ghê gớm vào đầu óc thanh niên Đức. Ảnh hưởng ấy đã biến thành quyền lực vật chất xây dựng thành chế độ Quốc xã lúc chế độ này thua trận. Hitler và Goebbels đều tự tử chết cùng với gia đình. Họ đã thực hiện cái chết đúng như lời Nietzsche nói.


“Ta gửi các ngươi cái chết của ta, cái chết tự nguyện nó đến với ta bởi ta muốn thế”.



CHƯƠNG THỨ HAI


GIÁ TRỊ



Vào cõi Phật dễ, vào cõi ma khó.


NHẤT HƯU THIỀN SƯ



Marx nói: “Các triết gia từ trước đến nay chỉ mới suy nghĩ và diễn dịch cuộc sống qua nhiều lối khác nhau, nhưng điều quan trọng chính là phải làm thay đổi cuộc sống”. Người ta thấy rất ít người đi tới cùng công việc này.


Căn bản của vấn đề giá trị



Trí thức là quyền lực.


Với chính trị tính chết quyền lực càng nặng hơn.


Trong chính trị, trí thức chỉ có giá trị khi nào nó có thể biến thành quyền lực vật chất. Giá trị của phần tử trí thức trong chính trị cũng chỉ được thừa nhận theo tiêu chuẩn này.


Chính trị là một sự nghiệp thực tại tàn nhẫn và cam go, vận dụng trí thức để giải quyết bế tắt sinh hoạt xã hội, dọn quang chướng ngại trên đường đi của lịch sử.


Căn bản giá trị của trí thức ở thực tiễn mà đến.


Căn bản giá trị của phần tử trí thức ở đấu tranh mà ra.



Vai trò trí thức phần tử trong


các biến cố lớn của lịch sử



Biến cố chính trị thường là kết quả của tranh chấp giữa tập đoàn đang nắm chính quyền và những người bên ngoài chính quyền. Tập đoàn đó có hai thành trì bảo vệ:


a- Chính thống gồm những tổ chức và sức mạnh cai trị.


b- Đạo thống gồm những tổ chức trấn áp tư tưởng dùng tư tưởng đạo thống để bênh vực quyền cai trị hiện hữu.


Tập đoàn bên ngoài chính quyền thì khởi sự bằng phản kháng chống đạo thống rồi vận dụng tư tưởng tổ chức đối kháng với bộ máy thống trị nghĩa là đem trí thức biến thành quyền lực. Như vậy dẫn đầu các biến cố lớn hầu hết là một cuộc nổi loạn siêu hình (révolte métaphysique) nói theo kiểu Camus.


Để đánh đổ phần tử trí thức không thể không dựa vào một phần tử trí thức khác. Cuộc nổi loạn này có hai trận tuyến.


1- Tình cảm.


2- Lý trí.


Cả hai đầu nhằm mục tiêu hủy diệt uy quyền chính trị của đối phương.


Ở đây phần tử trí thức là những người của từ ngữ (men of words), đi cao hơn bậc nữa họ là những người xây dựng lý thuyết (theoricien).


Để gây phong trào quần chúng phẫn nộ không thể không có những nhà thơ nhà văn như: Pouchkine, Ryleev, Tchekov, Gorki, Maiakovski, những hùng biện gia như: Fichte, Kakhovsky, Netcheev, Trozsky, Vanden Bruch.


Để chống lại lý thuyết vương quyền thần thụ cửa Bossuet cách mạng Pháp không thể không có cuốn xã hội khế ước của Rousseau và vạn Pháp tinh lý của Montesgnieu.


Trước cách mạng Pháp, đa số dân chúng Âu Châu đều tin tưởng lời Bossuet nói:


- Thiếu bàn tay Thượng đế thì thế giới này sẽ rơi xuống vực thẳm, thiếu vương quyền thì xã hội này sẽ chìm vào hỗn loạn (Qua dieu retire sa main, le monde retombera dans le néant que l’ autorité cesse dans le Royaume tout sera en confusion).


- Phải nhìn cho rõ để thấy bàn tay Thượng đế trong lịch sử nhân loại ở bất kỳ thời đại nào, tất cả những biến chuyển lớn lao của lịch sử đều tuân thủ các nguyên tắc thần học bao là khắp mọi nơi.


(Il fallait donc faire voir dans les differentes époques de l’histoire humaine la main de Dieu, il fallait que les grands faits de l’histoire se pliassent à une interpretation universelle et théologiphe).


Muốn làm mờ Bossuet, cách mạng Pháp cần có trí thức lớn lao của Montesquieu. Do hiểu biết bao la của ông, ông đã chứng minh cho mọi người thấy rõ lý luận thần học của Bossuet lỗi thời rồi. Trong cái thế giới chính trị càng ngày thêm phức tạp, biết bao nhân vật, biết bao xung đột, biết bao quyền lợi riêng tư đối chọi nhau, làm sao tìm thấy bàn tay Thượng đế. Nhịp điệu thế giới biến chuyển theo với thủ đoạn, với mưu cơ của thực tế chính trị. Hàng trăm ngàn đầu dây mối rợ khó lòng mà nhìn nhận ra một nguyên tắc chỉ đạo như một mẫu số chung thì đương nhiên không thể đam chính trị thu hẹp vào nguyên tắc tê liệt của thần học. Chân trời lịch sử mở rộng, thế giới không còn là của Rome hay Jerusalem nữa. Á Châu, Phi Châu, Mỹ Châu đang đòi địa vị lịch sử của họ và dĩ nhiên không thể buộc họ vào sứ mạng Ki Tô. Vũ trụ không còn thu hẹp trong lối suy diễn thần học, nó đang tràn ngập và phá vỡ con đê lý thuyết Bossuet.


Intelligentzia



Tiền phong của cách mạng 1917 là những hoạt động trí thức. Từ những phong trào này sản sinh ra danh từ intelligentzia (khoảng cuối thế kỷ 19).


Theo Nicolas Berdiaev thì người Tây phương đã nhận xét lầm về Intelligentzia coi giống hệt như Intellectuel. Thực ra nó rất khác biệt. Đây không hảăn là một tổ chức nhưng nó cũng không buông thả ai muốn làm gì thì làm như trí thức Âu Châu. Intelligentzia ở Nga sống gần như một tôn giáo nhỏ với giáo điều tập quán phong tục và hình dáng bề ngoài riêng biệt và có cùng một quan niệm vũ trụ nhân sinh. Đó là một tập thể sông cho lý tưởng không phân biệt nghề nghiệp giàu nghèo. Mới đầu họ là tầng lớp học thức rồi lan đến các công tử quí tộc, sau xuống đến các tiểu công chức, tiểu thương đôi lúc còn thấy cả nông dân nữa. Sơ khai vì không thể trực tiếp hoạt động chính trị, họ gói chính trị vào hoạt động văn học. Lâu dần các buỗi hội đều là sự tụ tập để phê phán chính trị. Tinh thần của họ là tinh thần Raskol (tên tắt nhân vật tiểu thuyết của Dostoievsky, một sinh viên cấp tiến đã giết mụ cầm đồ cay nghiệt tượng trưng cho thể chế bất công bấy giờ). Tinh thần Raskol là tinh thần cuồng tín.


Thái độ táo bạo đầu tiên của intelligentzia là tước bỏ hết những quyền tôn giáo đối với họ. Raditchev đưa ra phương châm: Tâm hồn tôi bây giờ hướng cả về đau khổ của con người. Raditchev tìm mọi cách để truyền bá tư tưởng Rousseau, Diderot, Voltaire. Tư tưởng của cách mạng Pháp vào Nga phá vỡ đức tin cổ truyền. Pestel viết cuốn: Vérité russe một trong những đà móng của chủ nghĩa xã hội tại Nga.


Tinh thần Raskol cuồng nhiệt hơn sau việc chính quyền treo cổ các người cầm đầu vụ tháng 12 (les decembriste) là vụ nổi loạn mưu sát Nicolas 1er. Trong số người bị treo cổ có hai thi sĩ danh tiếng: Ryl 1er và Pestel.


Các phần tử trí thức intellegitzia thề nguyện một mất một còn với chính quyền thống trị đương thời, họ chân thành nghe theo tiếng gọi của thi sĩ Ryleev:


Không thể có thỏa hiệp nào


Giữa bầy nô lệ với bạo chúa


Chúng ta hãy viết ngay những trang sử máu


và vung gươm tiến bước.


Khắp dân gian những bản viết tay, in thạch lời cuối của Kakhovsky người cầm đầu vụ tháng 12, được truyền cho nhau đọc:


“Số tôi đã định đoạt. Tôi không than van, thản nhiên nhận bản cáo trạng. Sống hay chết với tôi gần như chẳng có gì đáng kể. Tôi không muốn nói đến tôi nhưng tôi muốn nói đến Tổ quốc của tôi, nếu ngày nào tim tôi còn đập thì Tổ quốc mãi mãi là điều linh thiêng nhất. Tổ chức hội kín của chúng ta đã bị khám phá. Chúng tôi chống lại ngài (chỉ Nicolas) với mục đích duy nhất là tiêu diệt bằng được cái gia đình đang ngự trị dù phải tắm trong máu để xây dựng một chính quyền nhân dân. Tôi say sưa trong tình yêu Tổ quốc trong tình yêu tự do. Với tôi không có gì gọi là tội lỗi khi đấu tranh.


Và hình ảnh những bộ mặt thản nhiên bước lên giàn treo cổ đã thành những hình ảnh đẹp nhất. Trên ngôn ngữ hàng ngày trên các sáng tác văn học chính quyền được mệnh danh là chúng nó đối lại với chúng ta là Intelligentzia. Cái gì chúng nó tin thì chúng ta phải phỉ nhổ, cái gì chúng nó cho là giá trị thì chúng ta khinh rẻ. Tất cả đều tập trung vào sự giải phóng con người trên thế gian, giải phóng thợ thuyền tạo điều kiện sinh hoạt mới, tiêu hủy hết thảy thành kiến, mộ đạo mê tín, lệ luật trói buộc và thứ nhất là những tư tưởng “trên trời” thứ tư tưởng làm cho nô lệ, thứ tư tưởng đánh cắp hạnh phúc nhân loại.


Đà cuồng tín lên cao, để cung ứng cho cuồng tín có một đường hướng khỏi rơi vào vực sâu yếu thế lãng mạn Netchaev sáng tác cuốn: Kinh bổn cách mạng (cathechisme révolutionnaire) ấn định một tinh thần mới:


“Chỉ biết cách mạng, cách mạng thay thế Thượng đế. Lấy luật lệ cách mạng làm nguyên tắc sống, lấy sức mạnh sắt thép hoạt động. Người cách mạng không còn tình cảm, quyền lợi công việc, liên hệ riêng tư nữa”.


Cái xã hội khốn nạn này phải phân chia ra làm nhiều loại, loại thứ nhất là bọn phải đem hành hình ngay, trước hết là những kẻ nguy hại trực tiếp cho tổ chức cách mạng. Bằng lối giết chóc tàn nhẫn luôn rình rập chúng ta có thể làm lung lay chính quyền thống trị bằng cách tiêu hủy những tay sai khôn giỏi của nó.


Hưởng ứng lời khuyên của Netchaev là hàng loạt vụ khủng bố khắp nơi, nhiều nhân vật cao cấp chính quyền và tay sai từ thành thị đến thôn quê bị giết. (ngược lại tổ chức cách mạng cũng bị chính quyền sát hại khá đông).


Khủng bố biến chết trở nên bừa bãi, thường vì lý do cá nhân thù hận khiến cho mọi người mất tin tưởng và chán ghét. Khúng bố làm cho cách mạng gần thành người mất trí. Nhìn thấy nguy cơ này, A. D. Mikhailov viết một số bài luận về ý nghĩa của tổ chức và kỹ thuật hoạt động bí mật. Theo Mikhailov thì:


“Làm việc vô tổ chức là lãng phí sức mạnh”.


Kỷ luật, phương pháp, tự chế, làm việc đều đặn, chu đáo đúng giờ giấc đó là những đức tính mới rất cần cho người cách mạng trong giai đoạn hiện thời.


“Tất cả mưu đồ chính trị đều phải loại bỏ được mọi bất ngờ may rủi mới có thể thành tựu. Phải tổ chức tất cả bí quyết thành công ở đấy.


Tư tưởng Mikhailov tạo nên nhiều vụ làm chấn động tâm lý toàn quốc, nhất là vụ theo đuổi giết vua Alexandre đệ nhị. Bị nhiều lần chết hụt, Alexandre phải trốn chạy, tăng cường canh gác xa lánh xung quanh, nghi ngờ đồ ăn thức uống. Dân gian thích thú truyền khẩu nhau: Alexandre ra lệnh như một vị bạo chúa nhưng run rẽ như một tên nô lệ. Tư tưởng Mikhailov có ảnh hưởng lớn, nhưng không đi ra ngoài phương pháp và hoạt động khủng bố. Cách mạng vẫn nguyên vẹn là những âm mưu tụ tập ít người nhỏ hẹp cho đến khi một chuyện quan trọng xảy tới. Ngày 9 tháng 1 năm 1905 dưới sự lãnh đạo của cha Gapone, chừng hơn trăm ngàn thợ thuyền từ Saint Petersbourg biểu tình tiến về lâu đài mùa Đông. Họ không mang khí giới, họ nắm tay nhau hát bài: Xin Thượng đế phù hộ cho Tsar. Cha Gapone đưa lời thỉnh cầu lên Tsar hoàng:


“Chúng tôi không dòi hỏi chi nhiều. Chúng tôi chỉ xin được làm việc 8 giờ một ngày, xin tăng tiền công hàng ngày lên một đồng rúp. Xin hãy cứu giúp dân chúng và hãy phá bỏ hàng rào ngăn cách giữa dân chúng với Ngài”.


Tsar hoàng rời Saint Petersbourg, quyền hành trao trọn vào ít tướng lãnh, giám đốc công an và quận công Vladimir Quân đội hạ lệnh bắn, đám người biểu tình ngã xuống như sung rụng. Tổng kết có 500 người chết 3000 người bị thương đàn bà con trẻ la liệt trên đất, máu đổ nhuộm hồng màu tuyết.


Tại Genève trong căn gác tối, Lénine nhận được tin và nhìn qua biến cố này ông nhìn thấy một trời ánh sáng hy vọng cách mạng đã tràn vào quảng đại quần chúng. Ông nghĩ lòng hăng say và căm hận đã nổi dậy trên khắp nước nếu con thiếu gì chỉ là thiếu lý luận đấu tranh, kỹ thuật đấu tranh. Lénine tự cho mình có bổn phận cung ứng những thứ đó. Thế là hàng loạt văn phẩm cách mạng do Lénine viết thành hình, chúng đã giúp cho cuộc đấu tranh rất nhiều. Cùng lúc ấy một bộ óc khác cần thiết cho cách mạng tháng mười và đã đóng góp nhiều công lao là bộ óc của Léon Bronstein tức Trotzky cũng hoạt động dữ dội.


Malaparte khi nhận định về Lénine có viết câu này: Lénine était survenu pour donner une logique au peuple Russe (Lénine hiện ra đem cho dân tộc Nga cách luận lý).


Câu ấy thật không có chi quá đáng.



Vũ khí sắc bén của trí thức phần tử



Bất cứ vận động chính trị nào, bất cứ phong trào quần chúng nào cũng đều khởi sự bằng một hiểu số quyết tâm chiến đấu và bất cứ cuộc khởi sự nào cũng bắt đầu bằng các hoạt động phá hoại uy tín đối phương, kẻ thống trị sẽ bị mất lòng tin tưởng (l”ordre existant est tombé en discret). Ngược lại nếu chính quyền không quét sạch sức mạnh kẻ phản kháng để buộc phải vâng lệnh mình, cứ để tình trạng phá hoại uy tín lan rộng là thua.


Sự mất uy tín hay uy quyền chính trị không hẳn do ở những hành động sai lầm hoặc những quá lạm của kẻ cầm quyền mà bởi sự phê phán sắc nhọn của đối phương, của những người có khả năng hiệu triệu đặt vấn đề quá lạm và sai lầm ấy để vạch vòi ra hình ảnh thối rửa và bất lực. Nếu không có những phê phán nguy hiểm ấy thì kẻ thống trị dù quá lạm gấp đôi sai lầm gấp đôi cũng không bao giờ tự nó sụp đổ cả. Bởi lẽ ấy Tào Tháo mới nhìn thấy cái nguy hiểm của Dương Tu, Tháo giết Dương Tu là nhận ra cái tài phê phán tinh tường của Dương Tu, chỉ có Tu là biết đến ruột của ông, giết Dương Tu là giết mầm mống ác hại.


“Công việc tiền phong để đánh phá những thể chế thống trị, để quần chúng muốn đổi thay, để quần chúng chấp nhận một tin tưởng mới là công việc của những nhà văn, những nhà hùng biện tài giỏi, có danh tiếng”.


(Le travail préliminaire tendant à saper les institutions existantes, à familiariser les masses avec l’idée du changement et à créer en faveur de la nouvelle Foi un état de receptivité, ne peut, être accompli que par les hommes qui sont d’abord et avant tout, des orateurs ou des écrivains et qui sont reconnus comme cela par tout le monde).


Eric Hoffer viết tiếp:


“và những người cuồng tín (người hành động) chỉ nhảy vào cuộc chiếm giữ chính quyền khi nào trật tự, uy quyền cũ đã bị bất tín nhiệm, đã không được quần chúng nghe theo nữa”


(Les Fanatiques ne peuvent entrer en scène et prendre le pouvoir que si l’ordre existant est tombé endiscredit et a perdu l’audience des masses)


Do tính chất nguy hiểm của phê phán mà trên chính trị có vấn đề tư tưởng và khống chế tư tưởng. Vấn đề này bao giờ cũng trái ngược như trắng với đen giữa thực tế và ước mong. Ai cũng ước mong tự do tư tưởng, nhưng khi ngồi vào thực tế chính quyền là thi hành khống chế tư tưởng. Thậm chí ngay cả trên tư tưởng cũng mang nặng chủ trương khống chế tư tưởng nữa.


Khổng Tử nói:


“Nếu đạo của ta không được thực hành ta sẽ chèo thuyền dạo chơi ngoài biển, có Tử Lộ cùng đi với ta”.


Thật là một phong độ phóng khoáng vĩ đại, nhưng đồng thời nó cũng chỉ là một phong độ mong ước lý tưởng thôi. Thật thế, ngay các đồ đệ trực tiếp thụ huấn Khổng Tử như Tử Hạ, Tử Trương đã nghĩ khác rồi.


Tử Hạ nói: “Có thể thì ta chơi với, không thể thì ta cự tuyệt”.


Tử Trương: Khác với ta, ta lấy thái độ quân tử dung chúng không dung người không phải kẻ hiền, người cứ việc cự lại ta, ta có gì mà phải chống với người đâu”.


Đến như ông Mạnh Tử thì cái chuyện khống chế tư tưởng tăng cao lên nhiều lắm. Ông mắng Trần Trọng Tử là con giun, sỉ vả Hứa Hành là cái lưỡi con vẹt miền Nam công kích phái Dương, Mặc là súc sinh.


Lénine và tập đoàn của ông đã mang sinh mạng mình vào cuộc đấu tranh cho giai cấp vô sản thoát ách độc đoán của chế độ Tsar hoàng, nhưng khi nắm được chính quyền rồi ông dồn hết cả tâm lực vào việc xây dựng chế độ vô sản chuyên chính (dictature du prolétariat).


Lénine và tập đoàn của ông cũng đã từng rất say sưa với những bài thơ trong sáng Tự Do của Pouchkine và Ryleev nhưng khi thực sự bước vào cách mạng mỗi lần đề cập đến hai chữ Tự Do ông thường nói: “Ở chỗ nào có Tự Do thì chỗ ấy không thể có nhà nước”.


Lúc chế độ Cộng Sản đã thiết lập ở Nga, một nhà báo Ý sang Nga hỏi Lonnatcharsky ủy viên giáo dục rằng: Những người Bôn-sê-vích sẽ đối đãi ra sao với loại người như nhân vật Candide của Voltaire hay loại người thấm nhuần tư tưởng Niezstche?


Lounatcharsky thản nhiên đáp:


Chúng tôi sẽ không để bọn đó sinh sôi nảy nở.


Câu trả lời đó cho thấy Lounatcharsky thực thụ là một “léniniste”.


Mấy chục năm trước cách mạng tháng 10, Pouchkine, Gogol, Ogarinoff, Bielinski v.v… cùng chung sức kiến thiết cho nước Nga một tinh thần Tự Do Gió cách mạng Pháp đổi tới. Tinh thần Tự Do nảy nở trong long mỗi người để trở thành quan niệm tôn thờ Tự Do cá nhân. Lénine nhận thấy với tinh thần ấy cuộc cách mạng C.S Nga không thể nào thành tựu được. Lénine cho rằng: những ảo tưởng nhân đạo lý tưởng dân chủ, chủ nghĩa ái quốc lãng mạn, những ước vọng tự do của người “decembriste” không đủ khả năng chống trả với tổ chức đàn áp cách mạng, cho nên ông chối bỏ, ông xây dựng một quan niệm cách mạng khác. Lénine không hứa với dân chúng Nga hai chữ Tự Do mà kêu gọi trả thù và hòa bình. Với đám nông dân Lénine không hức Tư Do mà xui giục rửa hận và ruộng đất. Với thợ thuyền ông không hứa Tự Do mà gào thét báo oán nắm chính quyền. Ông nhìn rõ chân tướng tình cảm lê thê và lý trí rụt rè của phần tử trí thức lúc đó. Đã có lần Lénine nói với Kamenev:


“Đồng chí tin người ta có thể làm cách mạng mà không xử bắn ai hết sao?”.


Để biện hộ cho việc ông đã nghĩ đúng điều cần thiết của lịch sử, một lần ông thổ lộ với nhà văn Maxime Gorki:


“Sự độc ác tàn nhẫn của tôi sau này mọi người sẽ hiểu và tha thứ”.



Ba mặt của phê phán



Phê phán một thể chế thống trị có ba mặt:


- Phê phán tinh thần, đạo đức (critique morale)


- Phê phán chuyên môn, kỹ thuật (critique technique)


- Phê phán ý hệ hay phê phán lịch sử (critique historique ou idéologique)


Phê phán tinh thần đạo đức là chống lại những bất công, những sa đọa, những bế tắc trong quan hệ người với người như nhà viết kịch vĩ đại Ibsen ngụ ý trong các vở kịch của ông. Ông nhìn xã hội Norvège bấy giờ như một xã hội gồm toàn con người “nhân thân thú diện” (kịch When the dead awaken), trai ăn cắp gái làm đĩ. Gia đình người Norvège đầy bệnh hoạn tự tư, tự lợi, ỷ lại, nô lệ giả đạo đức (kịch La maison des poupées). Ở các vở kịch khác ông mở cuộc tổng công kích vào ba thế lực lớn nhất là pháp luật, tôn giáo, đạo đức. Với pháp luật ông vạch vòi sự gian lận của nó, tình cảnh chết cứng độc ác bất cố nhân tình của nó, pháp luật là sự lừa đảo những người cô thế. Với tôn giáo, Ibsen chế giễu nó qua nhân vật. Rosmersholm vị linh mục bỏ đạo chạy theo thế lực vật chất. Mất hết lòng tin Chúa, linh mục gia nhập đảng Tự Do nhưng đảng Tự Do lại buộc linh mục không được từ bỏ chức vụ tôn giáo, công tác của ông là hãy lợi dụng tôn giáo lôi kéo mê hoặc giáo dân làm lợi cho đảng. Với đạo đức Ibsen chua xót đưa vào vở kịch L’enne mi du peuple một người bị cả xã hội xua đuổi nhân danh đạo đức, dân chúng vì áp lực và gian tạo của cường quyền mà sôi nổi phỉ báng kẻ vì mình mà tranh đấu. Bằng vở kịch Wild duck ông nhìn nhận rằng những phần tử anh hùng của xã hội không còn nữa, chúng bây giờ đã được nuôi béo vỗ về nên bằng lòng cái kiếp chim lồng cá chậu mà quên hẳn sông hổ mây trời.


Thời kỳ Tưởng Giới Thạch cai quản Trung Quốc có rất nhiều vở kịch được nhiệt liệt hưởng ứng chĩa mũi dùi phê phán cuộc sống khốn khổ dưới chế độ Tưởng đáng kể như:


- Lôi Vũ của Tào Ngu phơi bày tội ác của gia đình phong kiến, tình trạng ngột ngạt khó thở của cái sinh hoạt áp bức lừa dối.


- Nhật Xuất của Tào Ngu nói lên hy vọng của một ngày mai đẹp đẽ sau cái chết âm thầm của cô gái nhảy đáng thương Bạch Lộ.


- Hồng Thủy của Điền Hán lấy cảnh lụt mà diễn tả nổi ai oán của một gia đình nông dân. Đói khổ ông lão đã lừa lúc con dâu và cháu ngủ để tự trầm dành phần cơm manh áo cho cháu.


- Vãn Yến của Viên Mục Chi kêu gọi nổi dậy đấu tranh nếu không thì chỉ là tăm tối, tù ngục, chết chóc.


Phê phán lịch sử hay ỷ hệ là xét lại toàn bộ xã hội hiện đại để đặt định một xã hội tương lai, phong kiến, trung cổ giáo quyền được thay thế bằng dân chủ tam quyền phân lập tự do bình đẳng v.v…


Những tác phẩm lớn thuộc loại phê phán này có thể lược kể như sau:


- Quân Vương (Le prince) của Machiavel.


- Sáu tập luận về nền cộng hòa của Jean Bodin.


- Leviathan của Thomas Hobbes.


- Triết học chính trị rút tỉa từ Thánh thư của Bossue.


- Khảo luận về chính quyền dân sự của John Loeke.


- Vạn pháp tinh lý của Montesquieu.


- Xã hội công ước của Jean Jacques Rousseau.


- Lực lượng bình dân của Sieyès.


- Diễn văn tập về quốc gia Đức của Hichte.


- Nền dân chủ tại Mỹ của Rocqueville.


- Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản của Karl Marx.


- Điều tra chế độ dân chủ của Charles Maurras.


- Cảm nghĩ vầ bạo lực của Georges Sorel.


- Nhà nước và cách mạng của Lénine.


- Mein Kampf của Adolf Hitler.



o0o



Phê phán kỹ thuật là chỉ trích những chính sách, những biện pháp của chế độ vì bất lực vì không thích nghi nên tạo ra sự lệch lạc, hỗn độn, tổn phí nguy hiểm.


Phê phán thuộc loại này thường thấy trên báo chí, trong các cuộc hội họp, hoặc ghi lên bảng qua hình thức biểu ngữ v.v… Giá trị của phê phán chỉ có thể tạo nên sức mạnh khi nó thu thập được sự hưởng ứng và đồng tình, mỗi ý kiến mỗi tư tưởng nêu ra là đều có những “Môn sinh” quy tụ, hay làm xúc động tâm lý số đông. Tào Ngu lúc nào cũng chú trọng vào pháp bảo “phải làm cho khán giả phổ thông bị hấp dẫn”, quần chúng chính trị chẳng có gì khác quần chúng kịch trường, người viết kịch cũng như những người phê phán chính trị đều phải nhìn nhận quần chúng là sinh mệnh của kịch trường.



Sáng tạo và giáo dục



Không phải chỉ có sáng tạo là quan trọng.


Giáo dục cũng quan trọng không kém.


Phần tử trí thức được phân công gánh vác hai nhiệm vụ đó. Alfred Sauvy viết:


Có hai loại tài năng, một gieo giống, một để cho sinh nở. (Il y a deux sortes de génies l’un qui avant tout engendrer et veut angendrer, l’autre qui aime à se laisser féconder et qui enfante).


Giáo dục là sự môi giới giữa quần chúng với lịch sử, giữa quần chúng với tiến bộ, giữa quần chúng với trật tự. Thất bại trên giáo dục tức là thất bại toàn bộ. Chính với giáo không tách rời nhau cũng như cách mạng và huấn luyện phải gắn liền.


Nếu ta đặt câu hỏi: Lịch sử xây dựng bởi trí thức phần tử?


Trong phạm vi cục bộ thì lịch sử xây dựng bởi anh hùng hào kiệt, nhưng trên toàn chỉnh thì lịch sử được xây dựng bởi phần tử trí thức. Sinh hoạt là kế tục thích ứng, muốn thích ứng với hoàn cảnh mới tất phải điều chỉnh nội bộ và ngoại bộ, nhiệm vụ điều chỉnh nằm trong tay phần tử trí thức. Lãnh đạo quyền là gì? Chỉ là sự nắm vững nguyên lý giáo dục. Hỗn loạn và lạc hậu bao giờ cũng là miếng đất tốt cho ác thế lực và hèn yếu nảy nở. Kẻ vô sỉ làm quan to không đáng sợ bằng kẻ vô sỉ đi giảng dạy học vấn. Thời kỳ tối tăm nhất lịch sử thảy đều là thời kỳ giáo dục phá sản, lịch sử chỉ lại sáng sủa khi giáo dục khởi sắc. Cái cảnh tưng bừng phấn khởi dưới những gốc đa, những tàn muỗm, ở làng Quang làng Mọc, làng Bưởi, các ông già bà cả, các thanh niên trai gái chăm chú nghe lời giảng của các vị sáng lập ra Đông Kinh Nghĩa Thục chính là dấu hiệu cho hy vọng quật khởi vậy.



CHƯƠNG THỨ BA


THÂN PHẬN


Chính bởi cái bản chất nhã quí mà phần tữ trí thức khi dấn thân vào thực tế tàn nhẫn thường bị gạt ra ngoài để mang cái hình hài thất bại. Hình hài của Phan Đình Phùng trước bộ mặt vô sỉ của Hoàng Cao Khải, hình hài của Antonio Mella trước vẻ đắc thắng của tên độc tài Machado (Cuba), hình hài của Maiakowsky trước tiếng cưới ngạo nghễ của loại Prisypkine, hình hài bần hàn trước thái độ huênh hoang của bọn bạo lợi.



Hai chiều thân phận



Nói đến thân phận phần tử trí thức cần xét trên hai chiều của thân phận.


1) Thân phận cái tôi riêng lẻ


2) Thân phận liên quan đến giai cấp.



o0o



Thân vô thái phương song phi dực.


Tâm hữu linh tê nhất điểm thông.


Thân phận cái tôi riêng lẻ của phần tử trí thức bắt đầu bằng con người lý tưởng, vì con người lý tưởng đó mà phần tử trí thức thường bất lực trong cuộc đấu tranh thực tế, tâm chất linh thông nhưng lại không có đôi cánh của con phượng hoàng đấy chính là bi kịch của thân phận trí thức.


Tối cao lý tưởng chính trí phương đông về vấn đề trị bình thiên hạ là làm sao cho mỗi người đều thành thánh nhân. Thánh nhân chỉ là một điển hình một phạm trù chung cho mọi người. Chính trị không thiên lệnh về phía ứng phó với hiện thực, mà chính trị là công cụ lý tưởng để hoàn thành văn hóa nhân sinh. Nếu đem chính trị thoát ly toàn thể con người, đem chính trị vì tâm chất lý tưởng quá hỏa biến thành không tưởng, phần tử trí thức không mang vào chính trị cái lạc thú chính trị mà chỉ mang vào cái lạc thú nhân sinh, cho nên phần tử trí thức đối với chính trị vẫn hằng có cái lầm của Đường Tam Tạng.


Đường Tam Tạng phải dựa vào Tôn Hành Giả cũng như nhân loại cần phải được chính trị bảo vệ. Tôn Hành Giả quay quắt có 72 phép biến hình. Nhờ Tôn Hành Giả nên Đường Tăng mới qua khỏi nhiều nguy nan mang kinh về. Chính trị biến hóa vô lường có thần thông quảng đại mới đối chọi với bọn Ngưu Ma Vương ở Hỏa Viêm Sơn, cự địch với quạt ba tiêu của Thiết Phiến công chúa. Đường Tăng chẳng lúc nào không cần thiết có Tôn Hành Giả, cũng như nhân loại không thể thiếu chính trị dù phút chốc. Đường Tăng cũng biết vậy, nhưng do lý tưởng thúc đẩy Đường Tăng đã có lần đuổi Tôn Hành Giả đi. Lần ấy là lần Tôn Hành Giả dùng phép quật chết Bạch Cốt phu nhân, Đường Tăng chỉ trông bề ngoài tốt đẹp của Bạch Cốt phu nhân mà không biết là con tinh đội lốt nên cho rằng Tôn Hành Giả làm một công việc tán thiên hại lý nên nhất định vất bỏ Tôn Hành Giả. Đến khi Đường Tăng đi vào khu rừng tùng đen bị quái Hoàng Bào vây hãm không làm sao ra thoát, vô kế Đường Tăng phải cho mời Tôn Hành Giả.


Tâm chất lý tưởng và không tưởng khiến cho phần tử trí thức dễ tuyệt vọng với hiện thực chính trị. Cái chết của thi sĩ Vladimir Maiakovsky là một điển hình. Maiakovsky thuộc thế hệ tiền phong của cách mạng tháng 10.


Vì cầm đầu vụ bãi công, Maiakovsky bị đuổi ra khỏi trường cao đẳng mỹ thuật rồi bị tù. Được gội rữa bởi nhà giam, thơ Maiakovsky sáng lên với giọng điệu công phá chế độ đưa chàng trở thành nhà thơ cách mạng.


Cách mạng thành công, trong dân chúng lưu truyền rộng rãi câu thơ:


Với tất cả sức lực của thơ,


Ta xin hiến dâng


Cho giai cấp nổi lên mà reo hò tấn công


Nhưng cũng chính Maiakovsky là người đầu tiên tuyệt vọng với chế độ mới. Bởi Maiakovsky trong sạch quá mên chàng không thể chịu đựng nổi sự đau lòng khi trông thấy các chiến sĩ Cộng sản đang tìm cách tư sản hóa, sự ngộp thở của bộ máy quan liêu đỏ. Chế độ mới không chấp nhận thiên tài dù cho thiên tài ấy đã từng là kẻ dẫn đầu xây dựng chế độ.


Ngày 14 tháng 4 năm 1930, Maiakovsky vừa tròn 36 tuổi lấy súng tự bắn vào đầu, trước đấy ba năm là nhà văn Essinine chết tương tự.


Tại sao các chiến sĩ xã hội, chiến sĩ Cộng sản cùng một lúc lại là bọn côn đồ bóc lột, thích tư hữu. Càng nặng với chủ nghĩa xã hội bao nhiêu lại càng ham vơ vét bấy nhiêu. Tại sao thế?


Đó là câu hỏi mà Dostoievsky nêu ra, bây giờ nó như nhát búa đập suốt ngày đêm trong đầu óc nhà thơ trẻ tuổi. Đâu đâu Maiakovsky nhìn thấy bộ mặt tên Prissipkine (Nhân vật kịch đại biểu cho người cán bộ Cộng sản ham giàu sang trong vở Lũ Rệp của Maiakovssky). Bây giờ chàng mới hiểu: Chủ nghĩa, lý thuyết, lý tưởng Cộng sản là một chuyện nhưng đảng C.S với cái guồng máy quan liêu nặng áp bức lại là chuyện khác. Người ta chỉ có thể là Cộng sản thuần túy và từ giã đảng để rồi rơi vào tình trạng cô đơn vất lực.


Maiakovsky buồn nản nhận xét nông dân thợ thuyền vẫn rách trong khi các chiến sĩ Cộng sản đầy quyền uy đi trong xe hơi lộng lẫy, ở tại các lâu đài của Tsar hoàng.


Cái chết của Maiakovsky là một thảm kịch chính trị. Mặc dù nhà đương cục tung tin Maiakovsky tự sát vì bị khủng hoảng tinh thần ông sợ mình đã cạn nguồn sáng tạo, chẳng ai tin.


Không dừng được, Stalinne phải lên tiếng:


“Maiakovsky mãi mãi là nhà thơ vĩ đại tài ba của kỷ nguyên sô viết chúng ta”.


Tâm chất lý tưởng và không tưởng biến người trí thức thàng Abélard bị thực tế hay thực quyền hoạn thiến.


Abélard giáo sư đầu tiên có những tư tưởng cấp tiến của thời Trung Cổ Pháp, ông dạy thần học ở nhà thờ Đức Mẹ Paris và ở đây ông sáng lập chủ nghĩa duy danh (nominalisme), ông được nhiều thanh niên Âu Châu tán thưởng. Lúc ấy (1116) quyền tu viện còn mạnh lắm, giáo hội không mấy ưa tư tưởng của Abélard.


Héloise vừa mười chín tuổi, nàng mới tốt nghiệp trường nhà dòng và ở với chú là Fullbert quí tộc phong kiến. Héloise đẹp lắm lại nổi tiếng trí thức.


Abélard vận động đến dạy Héloise về môn triết. Hai người yêu nhau. Xã hội thế lực phản đối cuộc tình này. Abélard và Héloise bất chấp, họ cùng nhau bỏ trốn sự nghiệp bỏ trốn gia đình. Họ muốn tìm tự do trong tình yêu. Họ muốn chứng minh tình yêu không phải là kết quả của trái cấm của quỷ cám dỗ. Một đêm kia, Abélard đang nằm ngủ, bỗng số đông người ập tới đè cứng Abélard mà thiến. Đau khổ Héloise xin vào tu viện còn Abélard bị kẻ thù săn đuổi cho đến phút cuối cùng. Thượng Đế nhất quyết trừng tội cả hai.


Tâm chất lý tưởng và không tưởng đẩy phần tử trí thức vào tình trạng một kẻ lưu đầy, họ lạc lỏng trong cuộc đời thực tế bao vây bởi ngàn vạn phi lý như các nhân vật của Albert Camus (l’exil et son Royaume, l’Etranger), họ là những con thuyền say giữa cuộc đời.


Hình sáng người trí thức đã được các nhà văn lớn miêu tả như Trofimov trong vở kịch Vườn anh đào (La cerisaie). Antone Tchekov mảnh khành, đôi mắt buồn tượi, mắc bệnh lao nên không thể nóng rét lúc nào củng có chiếc khăn quàng cổ, thể xác yếu ớt nhưng tinh thần lại tràn đầy sức sống.


- Như Pierre trong tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình (La guerre et le paix- Léon Tolstoi) đại lượng, suy tư tha thiết không thể gần gũi với xã hội quí tộc thối nát.


- Nhưng Mychkine trong tiểu thuyết “Kẻ đầu ngu” (L’idiot Dostoievsky) trong sạch và ngơ ngác trước những bẩn thỉu của đời.


Đôi khi nhưũng “con thuyền say” đó trở thành cuồng sĩ thầy đồ ngông, hoặc họ tự nhận chìm mình trong thú vui ma túy.



Ngũ độc thư



Nếu ai đã từng nghiên cứu về khoa tướng số đều phải biết câu này:


Nhất mệnh


Nhị vận


Tam phong thủy


Tứ âm công


Ngũ độc thư


Người đọc sách hay là phần tử trí thức đã rớt xuống hàng thứ năm không phải là hàng thứ nhất như các nhà trí thức vẫn lầm tưởng đâu. Người đọc sách rớt xuống hàng thứ năm nghĩa là đọc sách có giỏi vẫn thua thằng số tốt, vận tốt, mồ mả tốt và âm đức tốt.


Trên thực tế điều này rất đúng, nhưng theo khoa học xã hội người ta có thể giải thích hiện tượng ấy mà không căn cứ vào số tốt, mồ mả tốt và âm đức tốt. Từ trước tới nay đa số thường nhận lầm phần tử ưu tú (élite) với phần tử trí thức (intellectuel) là một. Dĩ nhiên phần tử trí thức là phần tử ưu tú mà không hề là phần tử trí thức. Nếu không quan niệm được rõ rệt sự khác biệt giữa ưu tú và trí thức rất khó lòng nhận biết tường tận thân phận trí thức.


Danh từ ưu tú để dịch chứ élite ở đây không được chỉnh cho lắm nên cần phải nói thêm rộng cho rõ nghĩa hơn. Ưu tú trong quan niệm của chúng ta qua thói quen thường kiêm nhiệm cả cái nghĩa phẩm hạnh nữa, còn ưu tú ở đây xin hiểu bằng sự loại bỏ phẩm hạnh rồi thu nó vào nghĩa tài giỏi trên mặt nào đó. Đọc chuyện Đông chu liệt quốc trí hồi Mạnh Thường Quân trốn ra khỏi cửa ải Hàm Cốc, lúc đó trời chưa sáng mà quân thù nghịch thì đã đuổi đến nơi. Mạnh Thường Quân lo lắng nhìn các mưu sĩ xung quanh mình xem có kế gì thoát chăng. Các vị trí thức mưu thần ngơ ngác hỏi nhau, rút cuộc ai cũng chịu bó tay. Bỗng có hai người tiến lên nói mỗi người có một sở trường đặc biệt khả dĩ cứu cơn nguy nan này, một người biết bắt chước tiếng gà gáy và một người biết chui giậu rất giỏi. Mạnh Thường Quân y kế cho hai người chui ra ngoài cửa ải cất tiếng gáynguy nan nayela) trong sach, gà các nơi thi nhau gáy theo, quân sĩ canh gác tưởng đã sáng rồi mở các cửa ải, Mạnh Thường Quân thoát. Đời sau gọi chuyện ấy là chuyện “Kê minh cẩu đậu” ý chỉ những người tài vặt.


Sự so sánh tuy không được chuốt lắm vì nó hãy còn quá thiếu sót, nhưng nó cũng giúp ít nhiều hình tượng để nhận thức danh từ ưu tú (élite) ở đây. Sau đây là những định lý mà một nhà xã hội học Ý đưa ra để làm tiêu chuẩn phân biệt đối với phần tử ưu tú, Paréto tuy có luận điệu khinh bạc nhưng rất đúng sự thật. Ông viết:


Bây giờ hãy đưa ra một giả thuyết là phê điểm về khả năng của mỗi cá nhân trong từng ngành hoạt động xã hội như ta phê điểm bài vở học sinh.


Tỉ dụ: một luật sư nổi tiếng đông thân chủ phê 10 điểm, con số “không” thì dành cho kẻ hoàn toàn ngu (les idiots).


- Người kiếm nhiều tiền bạc(lương thiện hay bất lương không thành vấn đề) phê 10 điểm. Người kiếm chừng vài trăm ngàn phê 6 điểm và người chỉ kiếm đủ hai tay vầy lỗ miệng cực nhọc phê 1 điểim, số không dành cho kẻ ăn xin.


(Nếu Paréto mà sống ở Saigon ngày nay, ông sẽ nhìn thấy phần tử tinh hoa trong giới ăn xin, lưng vốn chừng mươi vạn bạc cho vay lấy lời).


- Tên lưu manh chuyên sống nghề lừa đảo mà chưa lần nào mắc kẹt bị bỏ tù, phê 8 hoặc 9 điểm. Tùy theo con mồi nó đã săn được và số tiền đã kiếm được. tên ăn cướp vặt dăm bảy trăm bạc rồi rơi vào tay cảnh sát phê 1 điểm.


- Một nhà thơ được xưng tụng như Musset phê 8 hay 9 điểm và phê cho kẻ làm thơ con cóc 1 điểm.


- Các “bà lớn” kiểu Aspasie de Peridès, Maintenon (de Louis 14) Pompadour (Louis 15) đã từng dùng tình nhân quyền thế để tạo địa vị làm mưa làm gió cho mình phê 8 hay 9 điểm. Còn các bà được Vua yêu, chúa dấu một thời rồi bỏ rơi chẳng được hưởng chút tăm tiếng lợi lộc phê 0 điểm.


Muốn diễn nôm na định lý Pareto, có thể đưa ra một hình ảnh của xã hội mà chúng ta đang sống hiện tại, Mỹ ào ạt đổ sang V.N, Mỹ cần tài xế lái xe cho các cơ sở tiếp vận, các phần tử ưu tú của ngành hoạt động này tổ chức nhảy dù hàng Mỹ kiếm cả chục triệu bạc, trong khi các tài xế khác vẫn lương ba cọc ba đồng. Đem anh chàng tài xế thành công kia đặt cạnh một phần tử trí thức nào đó, trên bình diện tư tưởng trí thức, người tài xế thua sút hẳn nhưng trên một mặt khác phần tử trí thức phải chịu kém vế, và trong trường hợp phần tử trí thức lại nghèo nữa thì càng hiện lên cái cảnh bần hàn trí thức bên cạnh huênh hoang của ưu tú bạo lợi.


Hai vị bác sĩ, một vị giỏi xoay hành nghề bơm mông bơm vú kiếm gấp mười lần vị bác sĩ lọc cọc cho đơn thuốc hàng ngày. Anh chàng bác sĩ bơm vú bơm mông là loại ưu tú của giới bác sĩ.


Những người mà Pareto phê nhiều điểm nhất đa số thuộc hai loại:


a) Quỷ quyệt (chuyên rình rập cơ hội đoạt quyền đoạt lợi bất cần gia đình, tổ quốc, tôn giáo nhưng lại rất giỏi về môn lợi dụng các lý tưởng đó. Bọn này sống quay quắt không sợ thay đổi, hỗn loạn vì họ luôn luôn đủ sức phụ họa với thời thế mới.


b) Táo bạo (chuyên xông xáo, phiêu lưu làm đã rồi mới nghĩ tỉ dụ kẻ đi tìm vàng tìm mỏ dầu ở miền Tây Hoa Kỳ, bọn lính đánh thuê tại Katanga).


Trong mọi cuộc đấu tranh, phần tử trí thức và phần tử ưu tú cùng đứng hàng tiền phong, nhưng rồi dần dần phần tử trí thức bị đẩy lui để mang cái hình hài thất bại.


Phần tử trí thức mải mê với chân thiện mỹ nên đã trở thành kẻ lưu đày trong cuộc sống, họ thiếu những gì cần thiết để sống trong xứ ma.


Phần tử trí thức đa số là loại người thiên hướng về lý tưởng, mặc dầu họ không phải không nhìn thấy thực tế, nhưng nhìn để mà chối bỏ, để mong bắt nó vào lý tưởng cho nên họ rất yếu khi đối diện với sự phũ phàng của thực tế.


Đó cũng là một điều giải thích cái thói quen nếu phải nhận giữa Hitler và Thomas Mann ai là trí thức thì người ta nghĩ ngay Mann, giữa Kroutchev và Pasternak thì Pasternak, giữa Henri Ford và Scott Fitzerald thì Fitzerald mặc dầu chẳng ai nghĩ rằng Ford, Hitler, Kroutchev là bọn vô trí thức. Trotzky nhổ bọt vào tay Staline khi Staline chìa tay ra chào đó là lý tưởng muốn biểu lộ sự khinh khi cái tàn nhẫn của thực tế. Trotzky bị Staline đánh bại khi bỏ nước ra đi đó là điều chứng minh thất bại của mẫu người trí thức khi đối chọi với mẫu người hành động.



Thay bậv đổi ngôi



Mỗi biến động xã hội, biến động lịch sử đều có sự lưu hành của các phần tử ưu tú (circulation des élites). Ca dao nước ta có câu:


Trời làm một trận lăng nhăng


Ông xuống làm thằng, thằng lại lên ông


Hai kẻ tiền phong ưu tú và trí thức mỗi kẻ đóng vai trò quan trọng ngang nhau, kẻ nói người làm, người nghĩ kẻ thực hiện họ sát bên nhau chiến đấu chống kẻ thù chung.


Đình trưởng Lưu Bang và tập đoàn giang hồ phong bái đứng bên trí thức Trương Lương. Tiêu Hà, Tào Tham.


Bảo tiêu Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi liên kết với Khổng Minh, Phượng Sồ, Từ Thứ.


Con người lão luyện Tào Tháo kết tập với Quách Gia, Giả Hủ, Tuân Úc.


Hồng Tú Toàn có Tiền Giang làm phò tá.


Trên Lương Sơn Bạc có ông tú Ngô Dụng.


Lưu Bang mà không có Trương Lương Tiêu Hà chắc chắn khó lập thành cơ nghiệp Hán. Trương Lương Tiêu Hà không phò Lưu Bang chắc chắn suốt đời chỉ là thư sinh bất mãn.


Khổng Minh không có Lưu Bị tất quanh năm nằm co thôn dã, Lưu Bị thiếu Khổng Minh thì chẳng bao giờ làm vua đất Thục.


Sát cánh như thế, nhưng khi sắp lại ngôi thứ quyền binh phần tử trí thức bao giờ cũng đứng thụt xuống. Lưu Bị tuy ba lần gội tuyết đạp mưa chầu chực nơi ngôi nhà lá của Gia Cát Lượng, gặp lúc Gia Cát Lượng đang ngủ phải chắp tay đứng chờ, rốt cuộc khi cùng nhau lo việc nước thì Lưu Bị là vua còn Khổng Minh là bầy tôi.


Trí thức đứng thụt xuống là vì trí thức hay so đo cho nên kém dũng khí. Theo Từ Lượng Chi thì đấy cũng là cái lý do tại sao ở lịch sử Trung Quốc phần tử trí thức chỉ làm đến tể tướng thôi mà lưu manh nhiều lúc lên ngôi hoàng đế.


Trường hợp trí thức kết hợp với hanh động trên một con người như Lénine, Mao Trạch Đông, Mustapha Kémal, Tào Tháo rất hiếm, vả lại dù có thế thì cái địa vị tột đỉnh của họ vẫn do con người hành động mà ra. Trong quá trình diễn biến từ trí thức sang quyền lực để thực hiện kẻ làm đã hơn người nghĩ.


Goathe nói: “Nghĩ thì dễ, làm mới khó, làm được những điều mình nghĩ lại càng khó hơn”. Phần tử trí thức có một nhược điểm lớn là muốn tính trước tất cả nhưng rồi không tính trước được tất cả nên trù trừ không dám hành động. Nhược điểm này tạo thành ngôi vị thứ năm của người đọc sách vậy.



Bị ngược đãi và bị đổ sát



Tô Đông Pha nhiều lần bị giáng chức và bị lưu đày vì chống không lại với tập đoàn chính trị Vương An Thạch, ông chán chường với thân phận trí thức bằng bài thơ sau đây:


Nhân gia dưỡng tử yêu thông minh


Ngã bị thông minh ngộ nhất sinh


Đãn nguyện sinh nhi ngu thả lỗ


Vô tai vô nạn đáo công khanh.


( : người ta nuôi con, mong con thông minh, như ta đây thì thông minh chính là một điều lầm to cho đời ta. Ta chỉ mong sinh ra đứa con vừa ngu vừa lỗ mãng. Như vậy nó vẫn có thể làm quan to mà không bị tai nạn khốn khổ).


Sứ mạng của trí thức là đi tìm chân lý và phê phán (L’intellectuel a mission de chercher la vérité et de Juger). Chính vì phải thực hiện sứ mạng này mà phần tử trí thức bị bạc đãi và bị đổ sát.


Chính vì mang sứ mạng này mà phần tử trí thức đã bắt với một loại thói quen là thường xuyên đối lập.


Phê phán tất đụng chạm, kẻ ngồi tại quyền ở lãnh vực nào cũng thế rất không hài lòng với chỉ trích và phê phán bao giờ. Họ sẵn sàng nếu có cơ hội hoặc sẽ cố tạo ra cơ hội để tiêu diệt phê phán. Kẻ tại quyền thù hận phê phán của phần tử trí thức như thế nào?


Hãy đọc những lời của Barrès:


“Không có gì đáng ghét bằng lũ trí thức nửa mùa tự nhận làm những tay quí tộc tư tưởng, tự cho ta khác xa với đám quần chúng tanh hôi… Bọn ấy đúng là rơm rác mà xã hội đang cố gắng tạo thành tinh hoa. Những thiên tài thiếu tháng những tâm hồn bị đầu độc đáng cho ta thương như lũ heo, người ta đưa về viện Pasteur để thử thuốc điên rồ. Đương nhiên người ta phải hạ chúng không thì cũng giam nhốt chúng”.


Trung Quốc có danh từ “văn tự ngục” để chỉ sự việc vì văn chương mà bị giam cầm. Văn tự ngục là thân phận trí thức thời phong kiến, văn nhân tham dự hoạt động chính trị, các chính trị gia dã tâm một mặt triệt để lợi dụng họ, mặt khác lại triệt để ghét bỏ họ. Tần Thủy Hoàng định thiên hạ xong, liền thi hành chính sách đốt sách chôn nho, lấy cớ là bọn nho sĩ thường đem cái xưa cũ ra để chống chế bài bác cái mới mẻ. Lưu Bang bỉ thị phần tử trí thức, ông thường nói: “Trẫm được thiên hạ trên lưng ngựa việc gì trẫm phải quý trọng bọn sách làm thơ”. Minh Thái Tổ còn ghét phần tử trí thức hơn nữa, ông lo ngại văn nhân dùng văn chương lưu truyền những vụ phản bội của ông, cùng gốc gác hòa thượng của ông. Chỉ một chút nghi ngờ thôi, ông đem bỏ ngục liền.


Phê phán của phần tử trí thức nguy hiểm và khó chịu như nọc độc của con bọ cạp. Lấy một tỉ dụ kể sau đây:


Nước Tống có một người tên Tào Thương, Vua phái y đến nước Tần, y đi với vẻ mặt muôn phần đắc ý. Tào Thương giỏi nịnh hót lắm cho nên đến nước Tần, Tần Vương cấp cho ba bốn cỗ xe. Tào Thương vênh váo gặp ai cũng khoe, có lần y đến chơi ông Trang Tử nói bốc trời “mới năm trước đây tôi sống hết sức cơ cực dệt dép cỏ sinh nhai, mặt võ vàng tiều tụy, ở nơi ngõ hẹp mà bây giờ khác hẳn, trong phút chốc được vua một nước lớn thưởng cho hàng trăm cỗ xe, thiết tưởng con người đắc ý chỉ đến thế là cùng.


Trang Tử cười nói:


Tôi nghe vua Tần có bệnh trĩ, mời thầy đến chữa thầy nào chữa khá thì cho cỗ xe, nếu tận tâm hơn lấy lưỡi mà liếm chỗ trĩ thì cho đến năm cỗ lận, như tiên sinh vua Tần ban tới trăm cỗ xe chắc cũng đã liếm trĩ nhiều lần lắm nhỉ.


Tào Thương xấu hổ mặt đỏ nhừ. Trang Tử nói nhỏ: Thôi tiên sinh, tôi xin tiên sinh khoác lác ít chứ. Thứ nọc độc phê phán ấy gây thành thù hận giữa phần tử trí thức với kẻ đương quyền. Thù hận mặc, phê phán vẫn cứ phê phán, người trí thức thà chịu đổ sát ngược đãi chứ không chịu thiên hạ ngó lơ mình. Chân hành tẩu đã làm Cao Bá Quát bực dọc, ông tự coi như bị thờ ơ lãnh đạm nên bằng hai câu phê phán thi đàn của Tự Đức:


Ngán thay cái mũi vô duyên


Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An


Người trí thức thà chịu ngược đãi chứ không chịu không nói lên sự thật. Milovan Djilas dù đã ở ngôi vị phó chủ tịch nhà nước ông vẫn viết cuốn giai cấp mới để vào ngồi trong tù.


Đối với kẻ cầm quyền Djilas và Cao Bá Quát đáng hận ngang nhau.



Sát long chi bối



Sách Trang Tử chép:


Có người tên là Chu Bình Man chí lớn lắm muốn học điều gì khác thiên hạ, tìm kiếm mấy năm mới tìm ra ông thầy tên là Chi Ly Ích rất giỏi về khoa giết rồng. Chu Bình Man mừng quá, đến bái tôn làm tôn sư.


Chi Ly Ích đem tất cả bí quyết giết rồng dạy Chu Bình Man. Người họ Chu cũng cực chăm chỉ học, ông bán hết gia nghiệp quyết thành tài chẳng ngại tổn phí.


Thành tài rồi, gặp ai họ Chu cũng nói về cách giết rồng mổ rồng, cắt tiết, móc mắt, lọc xương rồng thế nào. Khốn nỗi chưa ai trông thấy rồng bao giờ nên mọi người chỉ cười, Chu Bính Man vẫn hứa hẹn sẽ có một ngày giết rồng cho bà con xem để mà khâm phục tuyệt kỹ duy nhất trên đời. Nhưng ngày đó chẳng bao giờ tới với người họ Chu.


Đa số phần tử trí thức cũng chịu thân phận giết rồng của Chu Bình Man mà ôm tài năng lạc lõng bơ vơ giữa cuộc đời, cuối cùng đem theo nó vào hòm chôn xuống đất. Là phần tử trí thức với nhiệm vụ hiểu trước biết trước, họ phải đi ra ngoài những tầm thường để tự đứng vào cái thế thiểu số (Je suis de ces intellectuels pour qui le rôle est d’être dans la minorité Drieu là Ro chelle) Karl Marl là một người giết rồng vĩ đại, cuốn tuyên ngôn của chủ nghĩa C.S. thời đó thực là một kỹ thuật giết rồng tuyệt diệu. Lạc lõng bơ vơ, người trí thức đau khổ vì bất lực không thay đổi được thực tại, nhưng thật ra ảnh hưởng của nó rất lớn. Nhiều chính khách đã từng là học trò của các vị giáo sư, đã chịu ảnh hưởng của các văn phẩm. J.F. Kennedy luôn luôn nhắc đến Harold Laski. Rất nhiều điều giảng dạy ở Đại học đã được đem áp dụng vào hành chính. Chủ nghĩa kinh tế “keynessienne” từng bị chế bỏ năm 1935 nhưng đến năm 1955 nó lại là kinh điển cho tư bản mới, là khuôn vàng thước ngọc của các nhà lãnh đạo Tây phương. Rồng không mấy khi hiện ra cho con người có thuật giết nó, được tỏ tài năng.



Thân phận giai cấp



Trí thức phần tử thuộc giai cấp tiểu tư sản đó là một sự thật. Hồ Thu Nguyên viết: Đại đa số phần tử trí thức có thể nói là ở giai cấp tiểu tư sản vì lẽ kẻ phú quí không đọc sách, người nghèo khổ không có phương tiện đọc sách, cho nên người đọc sách hầu hết xuất thân từ những gia đình “tiểu khang”.


Jean Kanapa viết: Nguồn gốc xã hội của phần tử trí thức bây giờ một phần là tư sản nhưng đại đa số thuộc giai cấp trung sản, tất cả những phân tích về trí thức phải khởi từ điểm này.


Sự thật ấy đưa lên chính trị, Cộng sản nhận định trí thức tiểu tư sản như một trong tội vì tâm lý hay giao động, dễ phản bội và không vững lập trường giao cấp. Trong khi phát xít và chủ nghĩa Mac Carthisme đối đãi với phần tử trí thức bằng chủ trương: Hoặc ngươi phải làm tay sai cho ta, hoặc ta cho ngươi vào tù, ta đốt hết sách của ngươi (Ou vous serez mes agents ou je vous jette en prison et brule vos livres).


Phần tử trí thức trên phương diện giai cấp đã có một đời sống đầy mâu thuẫn thù nghịch từ mọi phía. Còn sự thật nữa mà không ai có thể phủ nhận là chính đáng: những phần tử thuộc giai cấp tiểu tư sản ấy đã là tiền phong của cách mạng tháng 10, ai dám nói Lénine, Trorsky không phải là trí thức tiểu tư sản? Cũng lại chính những phần tử tiểu tư sản ấy đã là những rường cột bảo vệ cho thống trị tư sản, ai dám chối bỏ thân phận trí thức tiểu tư sản của Hitler, của Mussolini?


Phần tử trí thức thuộc giai cấp tiểu tư sản đó là một sự thật, nhưng thù nghịch đối với phần tử trí thức lại bắt nguồn từ một sự thật khác: đó là mâu thuẫn thường xuyên giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị, người tại quyền người tại dã, kẻ ở trong chính quyền và kẻ ở ngoài chính quyền; ở đấy trí thức lúc nào cũng là quyền lực đáng sợ nếu nó lãnh đạo được phía bị trị nổi lên. Đổ lỗi lên đầu phần tử trí thức mục đích tạo nên tâm lý tự ty và ý thức phạm tội để biến họ thành công cụ cho quyền thống trị. Nếu đem so sánh chủ trương của Phát-xít: “Hoặc ngươi làm tay sai cho ta, hoặc ta cho ngươi vào tù” với chủ trương của Lénine:


VĂn học phải trở thành văn học đảng. Đả đảo bọn văn học vô đảng, đả đảo những siêu nhân của văn học.


(La littérature doit devenir une littérature de parti. À bas les litterateurs sans parti, à bas les surhommes de la littérature).


Người ta chẳng thấy nó khác nhau bao nhiêu.


Cả hai đều làm công việc cần thiết lúc nào cũng thấy trên chính trị đó là hoạt động “định ư nhất” (Uniformity) bằng cách khống chế tư tưởng, bằng cách đào tạo một đội ngũ trí thức mới.



Quan hệ giữa phần tử trí thức


và chính quyền trong chính trị sử



Có hai loại:


a/ quan hệ bình thường là hợp tác


b/ quan hệ biến thái là mâu thuẫn


Chính quyền với phần tử trí thức hợp tác tất quốc gia hưng thịnh, ổn định.


Chính quyền với phần tử trí thức mâu thuẫn tất quốc gia suy vong, bạc nhược (nhu yếu một cuộc cách mạng).


Khi người đọc sách tuyệt vọng với thời thế là lúc đất nước khởi sự phục hưng.


Trên đại thể lịch sử, phần tử trí thức bao giờ cũng là đại biểu của quảng đại quần chúng với nhiệm vụ kháng độc, bảo vệ an định. Những quan kiện lớn lao của chính trị quá nửa do phần tử trí thức gánh vác.


Nếu người đọc sách còn giữ được hoạt lực và trí tuệ thì gốc của nước không lay chuyển.


Nếu người đọc sách lãnh đạo điều hòa giỏi hiện thực thì quốc thể cường thịnh.


Nếu người đọc sách còn tự tín đoàn kết nhất chí thì dù cho văn hóa có suy kiết vẫn hy vọng cứu vãn.


Có bốn tình hình nguy hiểm:


a) Chính quyền nhục bách trí thức, giam cầm trí thức làm cho lực lượng trí thức còi cọp.


b) Chính quyền hủ bại khiến cho chính bản thân trí thức cũng hủ bại hay phân hóa chân giả.


c) Đội ngũ trí thức cũ tan rã, trí thức mới chưa thành đội ngũ.


d) Chính quyền hoàn toàn không được phần tử trí thức hợp tác.



Withdraw and Return



Là một quy luật lịch sử do nhà sử học Toynbee xướng xuất, nghĩa là thoái ẩn và trùng lai. Lịch sử như nước thủy triều dâng lên rút xuống. Rút xuống do thoái lạc của chính quyền hủ bại, dâng lên do lực lượng mới nổi dậy- kết quả phấn đấu của phần tử trí thức.


Cuộc phấn đấu nổi dậy (trùng lai) này hiện trên ba mặt vận động:


1) Ngay tại trung ương những vị trung liệt, tuẫn đạo.


2) Tại dân gian giáo dân hóa tục gìn giữ sinh mệnh văn hóa quốc gia.


3) Tổ chức chủ lực phục hưng đề xướng phương hướng mới, học vấn mới, tinh thần mới.


2008-05-13 01:04:48

No comments:

Post a Comment