Saturday, January 17, 2009

Hoan Nghênh Ông Bùi Tín 1 (Viet Thuong -Nam nhan-Ly Tuan)

Hoan Nghênh Ông Bùi Tín

Việt Thường – Nam Nhân – Lý Tuấn

Kính gửi: Ông Bùi Tín,

Nhân dịp đầu Xuân Quý Mùi (2003), ông cho công bố “Một phương án đổi mới trình đồng bào cả nước”. Và, ông kêu gọi mọi người tham gia thảo luận, góp ý.

Ghi nhận lời nhắc nhở của ông là: “dám suy luận bằng cái đầu tỉnh táo của mình, hoài nghi một số định lý, chân lý, tín điều cũ, dám nói to điều mình cho là đúng, khi cần dám cưỡng lại số đông…”* Trên tinh thần ấy, chúng tôi xin chân thành thảo luận và đóng góp ý kiến với ông, hy vọng sẽ đưa ra công luận những sự thật của lịch sử Việt Nam đương đại.

Trước hết, chúng tôi xin hoan nghênh ông đã tuyên bố từ bỏ 9 huân chương kháng chiến, quân công, chiến công, chiến sỹ vẻ vang đã được khen thưởng trong suốt chiều dài 47 năm tận tụy phục vụ cho đảng cộng sản Việt Nam. Chính hành động này của ông đã khiến chúng tôi chấp nhận đối thoại với ông lần đầu tiên nhân dịp Xuân Quý Mùi này (2003).

Tại sao phải đến tận bây giờ chúng tôi mới chấp nhận đối thoại? Thưa ông, chính do nội dung 2 cuốn sách “Hoa xuyên tuyết” và “Mặt thật” của ông đã khiến chúng tôi nhận ra rằng: chỗ đứng của chúng ta trong xã hội Việt Nam khác nhau về căn bản nên phương pháp tiếp cận sự thật, mô tả sự thật của chúng ta hoàn toàn ngược nhau.

Chỗ đứng của ông là chỗ đứng của kẻ cai trị.

Chỗ đứng của chúng tôi là chỗ đứng của người bị trị, của người chống xâm lược.

*****

Yêu nước hay bán nước?

Trong hai cuốn “Hoa xuyên tuyết” và “Mặt thật”, ông đã trưng dẫn rất nhiều hình ảnh sống động, bằng cả số liệu để chứng minh cho những tội ác mà Hồ chí Minh và tập đoàn nắm quyền trong đảng cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam cho đến tận giờ phút này, đều bắt nguồn từ việc sao chép, áp đặt cái gọi là chủ nghĩa Stalin của Nga-xô và tư tưởng Mao trạch Đông của Tàu cộng. Đã có lúc ông tiệm cận được chân lý khi ghi nhận câu nói của một nhà báo Mỹ (ông không ghi rõ tên) gặp ông ở Sài-gòn khoảng 1976-1977, rằng: “Các ông đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã không thắng được trong hòa bình, các ông không chinh phục cũng không giải phóng được miền nam, các ông xử sự như những đội quân chiếm đóng(1). Và, ông nhận xét câu nói đó “thật là sâu sắc”, có nghĩa ông nhận thấy cách hành xử của giới chức cộng sản cầm quyền và quân lính của tướng Trần Độ tôi luyện là những tên xâm lược. Đó là khía cạnh nhạy bén của một nhà báo kỳ cựu và được tiếp xúc với bên ngoài nhiều, nhưng vì chỗ đứng là “đảng viên cộng sản ở vị trí có quyền” nên ông mượn lời một nhà báo Mỹ khuyết danh để che đậy cái thế éo le của ông: người thức thời trong hàng ngũ lũ bán nước!

Dám nhìn vào cuộc sống thật của nhân dân Việt Nam, nhưng ông lại phải làm cái việc bảo vệ chỗ đứng của ông, bảo vệ cái tổ chức mà ông đã đầu tư toàn bộ niềm tin, tuổi trẻ; cả mồ hôi và máu, cho nên ông đã chân thật viết rằng: “Trên tinh thần ấy, tôi không thể quay ngoắt lại chửi bới đảng cộng sản, nói xấu đủ điều, phóng đại những sai lầm và tự phủ định chính mình về tất cả mọi mặt.”(2)

Cái thế éo le đó của ông đã khiến ông luôn luôn mô tả thì tương đối chân thật, nhưng kết luận thì tránh né cốt lõi của sự thật.

Hai cuốn “Hoa xuyên tuyết” và “Mặt thật” của ông được viết ra sau khi cả Nga-xô và khối chư hầu Đông-âu của nó đổ kềnh. Nhiều tài liệu phong phú đã bổ xung cho việc vạch trần những tội ác trời sầu đất thảm của tập đoàn cai trị ở các nước gọi là “phe xã hội chủ nghĩa”. Những người làm cái việc vạch trần các tội ác đó, phần lớn đều sống trong “địa ngục xã hội chủ nghĩa”, và cũng hầu hết đều ở cái thế éo le như ông. Nghĩa là, một tay thì vạch sự thật, còn tay kia tự che mắt không dám thấy tay mình cũng có máu. Vì thế cách lập luận cứ vòng vo tam quốc, trình bày theo lối hàn lâm, kinh viện, tránh né nói toạc móng heo cho dễ hiểu.

Thí dụ: Lê-nin là cha đẻ của chủ nghĩa thực dân đỏ thì lại gọi là chủ nghĩa Lê-nin. Lê-nin mượn chủ nghĩa Marx làm bộ áo cà-sa để che đậy bộ mặt bành trướng bá quyền. Vì thế nên ngay lúc Nga-xô còn bao khó khăn, Lê-nin phải ký hiệp ước để các nước vùng Baltique và Ukraine chịu ảnh hưởng của Đức, thì từ đầu những năm 1920 đã cho lệnh tiến quân đánh chiếm Ngoại-mông (nay là nước Mông cổ), đặt thành thuộc quốc trên thực tế, còn về danh xưng thì màu mè gọi là “nước bạn”. Rồi lại đẻ ra cái gọi là “Quốc tế 3” với luận điểm ủng hộ sự giải phóng của các thuộc địa (ra khỏi chủ nghĩa thực dân “xanh”) mà thực chất đó là công cụ của Nga-xô nhằm tuyển mộ, đào tạo người của các nước, nắm chặt cả thân xác lẫn linh hồn của họ, biến họ thành tay sai, trở về tổ chức chống “thực dân xanh” để rồi tự nguyện làm nô lệ cho thực dân đỏ. (là chế độ được đội tên là “Liên bang xô viết).

Mao trạch Đông của Tàu cộng thấy được âm mưu đó của Nga-xô, cho nên cũng dùng cái áo “chủ nghĩa Marx-Lê-nin” để chống lại Nga-xô và cũng muốn giành quyền độc tôn trong chủ nghĩa thực dân đỏ mà thôi.

Chẳng làm gì có cái gọi là “chủ nghĩa giáo điều (hay phần tử giáo điều)”. Nếu nhìn vào hành động thực tế thì cả Lê-nin và cả Mao đều là “xét lại” so với chủ nghĩa Marx. Lê-nin đã nói và làm ngược với Marx là “cách mạng có thể thành công ở một nước”; còn Mao thì dựa vào nông dân chứ không dựa vào công nhân, và lấy “nông thôn bao vây thành thị”. Vậy họ “giáo điều” ở chỗ nào?

Vì thế, nên những mục tiêu của chủ nghĩa Marx lại chỉ xuất hiện ở các nước “tư bản, đế quốc”, như về năng suất lao động, về phúc lợi xã hội, nhân quyền, tự do, dân chủ v.v… Còn ở các nước lấy chủ nghĩa Marx-Lê-nin làm kim chỉ nam thì hoàn toàn ngược lại. Cũng may là nhờ ăn, ở trong nước tư bản, nghiên cứu, sáng tạo và phổ biến trong điều kiện của nước tư bản mà các tác phẩm của Marx được quảng bá, và Marx chết cũng trong yên lành. Chứ giả du: nếu Marx ở một trong bất cứ nước nào với mô hình “xã hội chủ nghĩa” thì chắc chắn Marx sẽ được đưa vào “tầng đầu của địa ngục”, hoặc bị nghiền nát ở “Quãng trường Thiên an môn”, hoặc đập đá ở trại giam Đầm Đùn của Hồ chí Minh cho đến chết rồi!!!

Những thông tin trong hai cuốn “Hoa xuyên tuyết” và “Mặt thật” của ông chỉ rất phong phú với người chưa sống qua hoặc sống mà không có điều kiện hoặc không đặt mục tiêu nghiên cứu về cuộc sống của người dân dưới cái gọi là “chế độ xã hội chủ nghĩa”. Còn với người đã có ít nhiều kinh nghiệm về sự cai trị của tập đoàn Hồ chí Minh và những kẻ nối nghiệp hắn thì còn hời hợt, còn nhiều chỗ sai và nhiều mâu thuẫn, quanh co.

Như chúng tôi đã nhận xét, rằng chỗ đứng của ông là của kẻ cai trị, mà lại là kẻ cai trị trong tổ chức cộng sản, nên nó vẫn đậm màu sắc ban ơn, kẻ cả và mâu thuẫn. Thí dụ, ngay những trang đầu của “Hoa xuyên tuyết”, ông đã viết: “Các bạn trẻ là tương lai của đất nước. Hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa. Các bạn hãy coi đây là lời tâm sự, là lời tâm huyết của một người đi trước nhận tội lỗi của thế hệ mình, của chính mình trước thế hệ trẻ thân yêu và tin cậy.”(3)

Trong đoạn văn nêu trên, ông kêu gọi “hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại”, nhưng rồi ông lại cũng ủng hộ hết mình lập luận kêu gọi: quên quá khứ. Thậm chí ông còn đi xa hơn khi viết: … “không nhắc đến những người đã quá cố vì họ không có khả năng tự bảo vệ nếu họ bị lên án”. (4)(!!!???)

Và, y hệt giới chức có quyền của cộng sản, luôn luôn tự cho phép thay mặt mọi người mà chẳng hề hỏi ý kiến ai. Cao và xa thì như việc bảy (7) tên cộng sản Việt Nam dám thay mặt cả nhân dân Lào và Cam-bốt, để theo lệnh của Quốc tế 3 (Nga-xô) thành lập “đảng cộng sản Đông dương”; gần thì Hồ chí Minh và cái dúm tay chân của hắn “tự cho phép thay mặt nhân dân Việt Nam” để xây dựng cái gọi là chủ nghĩa xã hội; để dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng; dâng cảng Cam-ranh cho Nga-xô v.v… Ông cũng thế, ông Bùi Tín ạ! Làm sao ông có thể và có quyền thay mặt cho thế hệ của ông để nhận tội với thế hệ trẻ?(!)

Trong thế hệ của ông, số như ông là bao nhiêu? Ngay từ 1945, những người của đảng Đại Việt đã thấy cái chất yêu tinh trong lốt người của Hồ chí Minh; rồi tiếp đến là Đức cha Lê Hữu Từ cùng với giáo dân, nhất là ở địa phận Bùi Chu và Phát Diệm; rồi các người theo các giáo phái Cao-đài, Hòa-hảo v.v… cho nên mới có chuyện “bất hợp tác” với Hồ. Từ sau các phong trào do Hồ chí Minh phát động như “đấu tranh chính trị”, “rèn cán chỉnh quân” và sự công khai trở lại cái công cụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ (tức chủ nghĩa Lê-nin – Stalin) là đảng cộng sản Đông dương, phân thân làm ba (3) cho dễ biến hóa, mà cái phần ở Việt Nam gọi là “đảng Lao động VN”, thì những người ở thế hệ của ông đã ào ào tụ họp lại thành lực lượng chống sự xâm lược của thực dân đỏ. Lúc đó, chưa có điều kiện, chưa có nhiều dữ kiện cụ thể để chứng minh được cuộc chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp đã bị Hồ chí Minh lèo lái thành cuộc chiến dùng người Việt Nam chết cho chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô, tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp. Cho nên người ta đã mơ hồ gọi là cuộc chiến quốc – cộng, hoặc có khi gọi là chiến tranh ý thức hệ, để sau này còn lầm lẫn nặng hơn khi gọi đó là cuộc chiến huynh – đệ!!! Đây là cuộc chiến giữa nhân dân Việt Nam chống những tên Việt gian, lính đánh thuê cho thực dân đỏ Nga-xô, Tàu cộng. Nghĩa là chống thực dân đỏ xâm lược.

Ông đã kinh ngạc khi kể lại những chuyện Hồ chí Minh bị Stalin và Mao coi thường như thế nào; Hồ và lũ cán bộ cộng sản của Hồ đã răm rắp tuân theo một cách ngoan ngoãn những lệnh của Stalin, những ý kiến của cố vấn Tàu do Mao phái sang. Ông đã tả rất sinh động cảnh các cố vấn Tàu cộng ngồi gác hai chân lên bàn, nhổ nước miếng ồn ào rất là Tàu và ra mọi mệnh lệnh, và từ Hồ cho đến Trường Chinh, Hoàng quốc Việt v.v… kính cẩn chấp hành.

Ông là người đọc nhiều, đi nhiều, gặp gỡ nhiều, xin hỏi ông có thấy trong lịch sử Việt Nam và các nước trên thế giới (ngoại trừ các nước chư hầu cộng sản của Nga-xô và Tàu cộng) có chuyện như vậy xảy ra không? Chắc chắn là không. Còn nếu có thì chỉ xảy ra giữa mẫu quốc và thuộc địa; giữa khâm sai thiên triều với lũ tay sai bán nước mà thôi!

Chính vì chỗ đứng của ông ngược với chúng tôi, nên tuy có thức thời nhìn ra những cảnh trên, nhưng vì không dám “tự phủ định chính mình” (như ông viết), nên ông bào chữa cho bộ mặt bán nước của Hồ và chân tay kế cận là bị ảnh hưởng của Stalin-nít và Mao-ít!!!

Ông thử trích xem trong “chủ nghĩa Stalin” cà “chủ nghĩa Mao” có chỗ nào qui định cho “cố vấn” ngồi gác hai chân lên bàn, khạc nhổ bừa bãi và ra lệnh cho “chủ tịch nước”, “tổng bí thư đảng” v.v… và tất cả phải chấp hành không dám bàn cãi, dù phải rất tàn bạo đối với cả ân nhân của mình, như cái chết của bà Nguyễn thị Năm (tức Cát thành long) là một ví dụ.

Vì không dám nhìn vào cái sự thật của những hành động và thái độ Việt gian đó của tập đoàn Hồ chí Minh nên ông đã viết sai với sự thật rằng: “tôi ở trong quân đội do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo từ tháng 9-1945 đến 10-1982.(5)

Vào thời điểm 1945, ngay tại Pháp, trong chính phủ của tướng Đờ-Gôn có sự tham gia của Mô-rít Thô-rê, là tổng bí thư đảng cộng sản Pháp, thế mà Hồ lại phải giải tán đảng cộng sản Đông dương? Trong khi các đảng khác như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội… tham gia Chính phủ Liên hiệp, đâu cần phải giấu mặt như Hồ và bè lũ. Tại sao vậy? Bởi vì nhân dân Việt Nam ghê tởm bàn tay máu của cộng sản từ cái gọi là Xô-viết Nghệ-tĩnh, và Hồ còn muốn cố che cái công cụ bành trướng của thực dân đỏ khỏi bị chú ý đến.

Mong ông hãy tham khảo lại “Biên niên tiểu sử của Hồ” (có trong cái gọi là “Bảo tàng cách mạng”) để thấy rằng thời kỳ đầu ra đời của lực lượng vũ trang là do sự hợp nhất các lực lượng vũ trang của các đảng phái, có cả bảo an binh của Chính phủ Trần Trọng Kim để lại. Cụ Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ) là bộ trưởng quốc phòng; giáo sư Tạ quang Bửu (khi đó chưa là cộng sản) giữ chức thứ trưởng và các cán bộ khung là Hoàng đạo Thúy (huynh truởng hướng đạo) làm chính trị vụ trưởng; bác sỹ Vũ văn Cẩn (nhân sỹ yêu nước) làm y tế vụ trưởng, và Vũ Anh (Việt minh) làm chế tạo vụ trưởng. Lực lượng vũ trang được gọi là quân đội quốc gia, được đặt dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp, chứ không phải của đảng cộng sản!

Trong cái lực lượng quân đội đó, nhân sự là cộng sản hồi ấy chỉ có một nhúm rất nhỏ mà cũng chẳng dám công khai nhận mình là cộng sản. Số lớn những người có tài là từ lực lượng vũ trang của VNQDĐ như các tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v… Một số khác từ lò lính Pháp mà ra, rồi vào lực lượng bảo an binh, như Lê trọng Tấn, Bằng Giang, Lô Giang… Số khác là từ học sinh, sinh viên như các tướng Vũ Lăng, các đại tá Lê minh Nghĩa, trung tá Nguyễn sanh Thí… Thậm chí cả những người được đeo lon cấp tá như Nguyễn đình Thi, Đỗ Nhuận, Trần Dần, Hoàng Cầm, Cao kim Điển, Quang Dũng v.v… cũng chẳng biết cộng sản là cái quái gì khi gia nhập quân đội. Và, chính ông cũng thế. Phải chờ đến sau khi Mao làm chủ lục địa, quân đội Quốc gia Việt Nam bị Hồ, nhân danh Chính phủ Liên hiệp, đưa qua Tàu làm cái việc tẩy não, rèn cán chỉnh quân, dụ khị, cưỡng bức mọi người gia nhập cộng sản, biến cái chính nghĩa của Quân đội Quốc gia trong nhiệm vụ giải phóng Tổ quốc và dân tộc khỏi ách thực dân Pháp thành ngụy quân và cái danh xưng Quân đội Quốc gia bị đánh tráo thành “quân đội nhân dân” hay”bộ đội cụ Hồ”(!!!), công cụ của thực dân đỏ, để tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp trên toàn cõi Đông dương.

Cho nên cái lực lượng vũ trang mà ông tham gia thoạt kỳ thủy không phải do “đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo” như ông đã viết. Vì thời kỳ đó về công khai làm gì có đảng cộng sản!!! Huấn luyện viên của các trường quân chính hầu hết không ai là cộng sản mà là hàng binh Nhật trốn ở lại; là cai, đội người Việt trong lính của Pháp cũ; là lực lượng bảo an binh của chính phủ Trần Trọng Kim để lại v.v… Quân đội đó từ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam mà ra, theo lời kêu gọi của Chính phủ Liên hiệp.

Ngay Trần Độ, trong hồi ký viết lần đầu, do Nhà xuất bản Thanh niên in năm 1957, có kể rằng: cuối 1944, Trần Độ là bảo vệ của Trường Chinh, được Trường Chinh trao cho một khẩu súng lục Browning và 2 viên đạn. Trần Độ giữ súng đạn mà vẫn chưa biết sử dụng. Một hôm đi qua Nghĩa đô thuộc huyện Từ liêm (Hà-nội), bị trương tuần của làng vây bắt. Trần Độ rút súng ra, tuy không có đạn nhưng trương tuần không biết nên sợ hãi bỏ cho Trần Độ đi thoát. Sang giữa năm 1946, Trần Độ được đưa về trung đoàn Thủ đô, cũng vẫn chưa biết gì về súng. Đơn vị có khẩu trung liên của lính người Việt trong đơn vị lính Pháp lấy mang về. Anh em thấy Trần Độ do trên phái tới, tưởng giỏi lắm, nhờ Trần Độ chỉ dẫn. Trần Độ có biết gì đâu, nhưng láu vặt, không thực thà nói rằng không biết mà giả vờ lệnh cho người lính Việt Nam đã ở trong binh lính của Pháp ra tháo và lắp khẩu súng cho anh em xem, nhân đó Trần Độ cũng học mót.

Quyển hồi ký đó của Trần Độ ra lò cùng thời cuốn “ký sự Điện biên”, năm 1957, chắc chắn còn lưu giữ trong thư viện Quốc gia (phố Tràng thi, Hà-nội). Nếu ông chưa từng đọc qua, có thể e-mail về Việt Nam, nhờ ai đó đọc hộ. Từ đó để thấy, sau 45 năm, tưởng thiên hạ quên hết chuyện cũ, nên trung tướng cộng sản Trần Độ đã tự ý sửa lại hồi ký của mình, năm 1957, để từ bảo vệ (tức lính hầu) của Trường Chinh, thành “được đảng phân công giúp việc cho tổng bí thư Trường Chinh”.(6) (Đúng là Cuội nên là tướng “chính ủy” có khác!!!)

Tiếp theo là các chính sách Việt gian nữa của Hồ đã khiến nhân dân Việt Nam chia làm hai khối. Một do Hồ cầm đầu quyết từng bước nhuộm đỏ toàn Đồng dương, biến Đông dương thành thuộc địa kiểu mới cho Nga-xô như Hồ đã nhận lệnh từ 1930, khi lập ra đảng cộng sản Đông dương. Khối còn lại là những người Việt Nam quyết bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Chính dã tâm của Hồ đã khiến năm 1954 Việt Nam tạm bị chia cắt làm hai miền qua hiệp định Genève về Việt Nam.

Ngay khi thi hành hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, bọn Hồ đã có dã tâm vi phạm. Chính ông đã kể lại lời Lê Duẩn rằng: …“Tôi nghĩ ngay đến bạo lực. Tôi bảo anh em chôn súng. Tôi bàn với anh em để lại lực lượng ở miền Nam không tập kết hết cả đâu nhé…”(7) Và ông cũng có nói đến nghị quyết 15 (khóa 2), của cộng sản Việt Nam, hạ quyết tâm dùng bạo lực vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam. Cái nghị quyết 15 ấy được ra đời trong cuộc họp dưới sự chủ trì của Hồ vào tháng 1-1959 (không hiểu sao ông lại viết lầm là 1960). Vì thế đến tháng 10-1959 chính phủ Ngô Đình Diệm phải có sắc luật 10/59 để tự vệ chống chủ trương bạo lực của cộng sản.

Đó là bằng chứng rõ ràng về dã tâm của tập đoàn Hồ chí Minh đối với nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân và chính quyền miền Nam Việt Nam vì tự vệ đã phải trừng trị những tên tay sai của thực dân đỏ nằm vùng, dùng bạo lực cướp của, giết người, phá hoại đời sống của người dân miền Nam. Nhưng do chỗ đứng của ông, nên ông đã nhìn sự việc lộn ngược, gọi bọn cướp của, giết người; bọn Việt gian, tay sai của thực dân đỏ đó là: “những người yêu nước”!!!(?)

Thưa ông Bùi Tín,

Những người Việt Nam rời vùng Hồ chí Minh cai trị, chạy vào thành thị trước năm 1954; những người từ Bắc di cư vào Nam, năm 1954; toàn thể nhân dân miền Nam Việt Nam cùng với bây giờ là đại bộ phận người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại (loại trừ bọn nằm vùng, bọn gọi là “thành phần thứ ba”, bọn cơ hội chủ hàng), và phải kể đến cả những người dân thường ở Bắc Việt Nam – mà ông gọi là công dân loại 2 – tuy cùng thế hệ với ông, nhưng tất cả đều là nạn nhân của cuộc xâm lăng vũ trang của thực dân đỏ mà tập đoàn cộng sản Việt gian Hồ chí Minh và bè lũ kế nghiệp thực hiện, cho nên họ không hề có tội gì với thế hệ trẻ để phải nhờ ông thay mặt xin lỗi. Hơn nữa, nếu viết như ông, rằng cả một thế hệ có sai lầm thì huề cả làng. Đây là kiểu xin lỗi rất quái chiêu, không biết phải nói như thế nào.

Cái lối tư duy đó của ông đã khiến ông không thấy rằng chính thế hệ trẻ hiện nay đang mang món nợ to lớn đối với thế hệ đàn anh, đã và đang chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân cả xanh, cả đỏ, cả lũ cộng sản Việt gian bán nước là tập đoàn Hồ chí Minh và những tên kế tục hắn cho đến nay là bọn Nông đức Mạnh, Lê khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, Nguyễn mạnh Cầm, Nguyễn di Niên, Lê công Phụng v.v… Biết bao nhiêu người đã hy sinh thân mình. Một số rất ít được chôn cất ở các nghĩa trang thì sau tháng 4-1975, chính ông cũng thừa nhận rằng bị tập đoàn cộng sản Việt gian chóp bu cho san bằng mồ mả. Ngay những người đã chết từ lâu, trên mảnh đất của mình, mà bị đối xử như vậy, thì thấy bọn chúng còn tàn bạo hơn cả thực dân xanh (tức Pháp). Vì thực dân Pháp vẫn tôn trọng ngôi mộ của các liệt sỹ VNQDĐ ở Yên Báy, mộ của Đề Thám, của Phan Đình Phùng, Phan Chu Trinh v.v… và ngay cả mộ của bè lũ Nguyễn phong Sắc, Lê Mao… (Xô viết Nghệ tĩnh) cho đến Trần Phú, Hà huy Tập… và cả mồ bố đẻ của Hồ chí Minh đâu có bị chính quyền miền Nam Việt Nam san bằng. Các thương phế binh của QLVNCH còn ở lại Việt Nam bị đối xử ra sao? Ra đến hải ngoại, các thế hệ đó vẫn tiếp tục phục quốc, đấu tranh cho dân chủ, tự do của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam không ngừng nghỉ. Những Phạm Phú Quốc, Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Long… và bao chiến sỹ vô danh đã ngã xuống trước đây; những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch… vừa qua; những Lý Tống, Nguyễn thị Ngọc Hạnh vẫn còn đang nằm tù vì đấu tranh cho quê hương và dân tộc. Những cuộc xuống đường của hàng 50 ngàn người về California trong vụ tên Việt gian Trần Trường; hàng 25 ngàn người trong kỷ niệm tượng đài chiến sỹ Việt-Mỹ vừa qua v.v… Thế hệ trẻ phải có trách nhiệm thừa kế thế hệ đàn anh, tiếp tục đấu tranh loại trừ tụi Việt gian cộng sản hiện nay, phải “tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa.”(8)

Đúng vậy, nếu không tìm hiểu quá khứ và hiện tại thì sẽ mơ hồ mà hành động như kiểu nhóm trí thức trẻ ở Toronto, dâng hương tưởng niệm, đọc văn tế trung tướng cộng sản Trần Độ; hoặc như “giáo sư, nhà bình luận chính trị” Nguyên Khả Phạm thanh Chương, mạt sát những người không tưởng niệm Trần Độ là “những cái đầu con tôm”, nhưng khi được ông Đại Dương lịch sự chỉ dẫn cho bệnh táo bón thông tin, dư thừa ngôn ngữ Cầu Ông Lãnh thì Nguyên Khả “lặn” mất tăm, không dám trả lời đúng hay sai (dù bằng loại ngôn ngữ nào cũng được).

Ông chỉ có thể thay mặt cho thế hệ của ông đã và đang còn nằm trong bộ máy đàn áp của tập đoàn Việt gian cộng sản để xin lỗi thế hệ trẻ về những sai lầm tàn bạo, đẫm máu gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Xin thành thật ghi nhận thiện chí của ông, nếu ông làm được điều đó.

Nhưng, xin lỗi chưa đủ, mà phải giúp cho thế hệ trẻ những thông tin trung thực, những kinh nghiệm máu và nước mắt của bản thân để họ dễ dàng “hiểu quá khứ và hiện tại” ít nhất cũng phải tương đối chính xác, làm cơ sở để “lý giải minh bạch mọi vấn đề”.

Đặc tính của tập đoàn Việt gian cộng sản là “vừa đánh trống vừa ăn cướp”, là “ký sinh trùng” của xã hội, là “nói một đằng làm một nẻo”.

Hai cuốn sách của ông đã phơi bày mọi chính sách, mọi chủ trương của tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế hắn, hoàn toàn do Nga-xô hoặc Tàu cộng chỉ đạo, sai khiến. Cung cách của chúng trước Nga-xô và Tàu cộng hoàn toàn là của lũ đày tớ vừa hèn hạ vừa trung thành mù quáng.

Những dẫn chứng cụ thể và sự mô tả của ông rất rõ ràng. Đúng ra phải kết luận rằng đấy là cốt cách Việt gian! Tiếc rằng ông, tuy biết hổ thẹn về “cấp lãnh đạo” đó của ông, nhưng chưa đủ can đảm để căm thù chúng, mà lầm lẫn kết luận sai và trút căm thù sai chỗ khi ông viết: “Cái duyên nợ nặng nề nhất với Việt Nam thì phải nói đến Stalin và Mao trạch Đông… Hai nhân vật này đã mang đến Việt Nam những cơn bão cấp 10, những cơn động đất đến 10 độ, làm điêu đứng từng gia đình, từng con người ở Việt Nam”! Tất nhiên là thông qua “thiện chí mù quáng” của đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả bi kịch là ở đó.”(9) Và, ông gọi Stalin là “… tên khát máu man rợ nhất, một con thú dữ lộng hành suốt hơn 30 năm cầm quyền, một kẻ gây tai họa cực lớn cho xã hội, nhân dân Liên-xô và thế giới(10) Ông viết tiếp: “Stalin đã tạo ra những tên đồ tể dưới trướng hắn như Béria.” (11)

Về Mao, ông viết: “…từ 1950 đến tận 1978, sách ông Mao tràn ngập các cửa hàng bán sách Nhân dân và các tủ sách công cộng: trong thư viện Quốc gia Hà-nội, sách của Mao được xếp vào loại kinh điển cơ bản nhất. Thư viện các cơ quan cho đế tủ sách các khu phố, trường học, xí nghiệp… đều tràn đầy sách của Mao… Sự sùng bái mù quáng Mao đạt đỉnh cao nhất vào tháng 12-1951, tại Đại hội Đảng lần thứ 2 họp trên căn cứ Việt Bắc, trăm phần trăm đại biểu giơ tay thông qua điều lệ mới của đảng ghi rõ trên giấy trắng mực đen: Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Engels – Lênin – Stalin và tư tưởng Mao trạch Đông làm nền tảng. Mặt trời chói lọi ấy chỉ ít lâu sau đã chiếu rọi khắp đồng quê miền Bắc, với những cuộc đấu tố kinh hoàng giai cấp “địa chủ” (mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc trung nông lớp trên); vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau…”(12) Và, ông khẳng định ai là chủ ở miền Bắc Việt Nam khi ấy, khi hạ bút viết: “Những phái viên kiệt xuất của Mao chủ tịch “là những ông chủ thực sự của cải cách ruộng đất… mà mỗi lời phán, gợi ý, đề xuất được coi là mệnh lệnh, là chỉ lệnh của Mao chủ tịch vĩ đại!”(13) Đoạn văn trên của ông minh chứng Hồ và đảng của hắn là Việt gian! Tiếc rằng ông chỉ dám giải thích cái hiện tượng đó là do: “Sùng bái” mặt trời phương Đông, nể sợ thiên triều Bắc Kinh, ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh ông, cho cả đảng cộng sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ”.(14)

Tất cả những trích dẫn trên đều do ông tự nguyện viết ra, ấy thế mà do chỗ đứng của ông, nên ông lại rất mâu thuẫn khi cố bào chữa cho Hồ rằng: “ phía những người quốc gia cực đoan nhất thì sự đánh giá ông Hồ là hoàn toàn tiêu cực”!!!(?)(15)

Để rồi ông lại chán nản thốt ra rằng: “Trong các giáo trình lịch sử được dạy ở các trường hiện nay (tức trường của cộng sản), nhiều sự kiện, nhân vật… cũng bị xuyên tạc. Các giáo trình ấy cho rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, đã tan rã hoàn toàn. Các tổ chức VNQDĐ sau đó rồi Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân cũng như Cách mạng Đồng Minh Hội… đều bị coi là những tổ chức phản động, những tổ chức tay sai của Quốc Dân Đảng Trung quốc, tay sai của thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ; nói tóm lại những tổ chức ấy đều là những tổ chức “Việt gian”, là kẻ thù của dân tộc”.(16)

Những tổ chức nói trên mà ông ghi nhận rằng bị tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế coi là “Việt gian”, lại còn qua giáo trình lịch sử để nhồi nhét vào đầu các thế hệ trẻ sự “xuyên tạc” ấy, chắc chắn không hề có chủ trương, chính sách, thái độ vâng dạ như Hồ và cái đảng cộng sản của hắn trước mẫu quốc Nga-xô và Tàu cộng để sát hại nhân dân Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Bởi vì chính Hồ, trong cuộc gặp gỡ Lăng Kỳ Hán và Hồng Chi Hằng trong phái bộ của Trung hoa dân quốc, giữa năm 1946, đã trịnh trọng khẳng định rằng: Việt Nam bất kỳ đảng phái nào cũng nhất trí đòi hỏi độc lập”.(17)

Đấy là một sự thật. Nhưng là sự thật chưa đầy đủ, vì đảng nào cũng mưu cầu độc lập cho Việt Nam, chỉ riêng đảng cộng sản Đông dương là trước khi ra đời (1930), sau khi ra đời cho đến nay đều tìm cách triệt hạ các đảng phái, các cá nhân không chấp nhận để nhân dân và đất nước Việt Nam thành chư hầu của đế quốc đỏ Nga-Tàu.

Trần ích Tắc bị đi theo quân Nguyên vào Việt Nam (chắc vì ươn hèn và tham vọng). Những Hoàng cao Khải, Lê Hoan, chắc chắn tội ác không bằng một phần tỷ của Hồ. Khi Hồ còn sống đã dâng biển dâng đất cho Tàu cộng. Bọn thừa kế Hồ là Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh… lại vừa tiếp tục dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng và v.v…

Những kẻ nói trên bị lịch sử kết tội là Việt gian thì Hồ và lũ thừa kế của hắn phải là đại, đại Việt gian.

Dù ông cố tìm cách phủ nhận, nhưng sự mô tả của ông về Hồ và bè lũ qua hai cuốn “Hoa xuyên tuyết” và “Mặt thật” đã chứng minh hùng hồn và cụ thể rằng chúng, tức Hồ chí Minh và đảng cộng sản của hắn là lũ Việt gian bán nước.

Ai là ngụy quân?

Thưa ông Bùi Tín,

Ông cũng đã sai lầm khi viết rằng quân đội là do “đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo”.

Sự thật là cộng sản tận cuối tháng 12-1944 mới cho ra đời được một trung đội vũ trang, do Hoàng quốc Việt làm lễ trao cờ ở Tân Trào. Nhìn tấm ảnh chụp thì chấy có chừng ba chục mống là cùng, với Võ nguyên Giáp làm trung đội trưởng. Trong hồi ký của trung tá Nguyễn văn Rạng, một trong số người của cái trung đội ấy, có kể là được học tập “điều lệ của Việt Minh” mà thôi.

Về Việt Minh (cả tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh hội) ra đời từ 1936, do cụ Hồ học Lãm, một người Việt Nam yêu nước, lập ra ở bên Tàu, nhằm tập hợp mọi cá nhân có chung mục tiêu giành độc lập cho Việt Nam, có thể có đường lối khác nhau, nhưng cùng sinh hoạt trong tổ chức này để được chính phủ Tưởng giới Thạch khi đó cấp kinh phí cho hoạt động. Tổ chức ra đời, có ký danh với trung ương Quốc dân đảng của Tàu.

Khi Hồ chí Minh bị tướng Trương phát Khuê bắt bỏ tù vì nghi là hoạt động cho cộng sản, Hồ năn nỉ để được các cụ Hồ học Lãm và Nguyễn hải Thần, nhân danh Việt Minh, bảo lãnh cho ra tù. Hồ xin gia nhập Việt Minh và xin được về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Chính nhờ cái “lốt Việt Minh” che đậy bộ mặt dra-cu-la cộng sản mà Hồ đã đánh lừa được nhóm thanh niên gồm hơn 40 người do tổ chức Việt Cách của cụ Nguyễn hải Thần móc nối qua Tàu và được Trương trung Phụng huấn luyện về quân sự. Cái nhóm đó chính là bọn Chu văn Tấn, Lê quảng Ba, Trần Sâm, Hồng Kỳ… sau này, tưởng Hồ là Việt Minh thứ thiệt nên chịu để Hồ giảng dạy về “Điều lệ của Việt Minh”, và họ quay về nước hoạt động phát triển Việt Minh.

Cho nên Việt Minh thật ra không phải là tổ chức của cộng sản. Điều lệ của Việt Minh không khát máu, nói chung, như cộng sản, nên nó có hiệu quả hơn khi vận động quần chúng tham gia.

Đội lốt Việt Minh, Hồ đã cướp không được hơn bốn chục cán bộ khung và dễ dàng mở rộng địa bàn ở biên giới. Vì thế, Hồ đã liên lạc với Trường Chinh, Hoàng quốc Việt để họp ở Cao bằng (1941) đưa ra âm mưu mượn danh Việt Minh hoạt động cho cộng sản. Sau này chúng trân tráo rằng Việt Minh là do chúng nặn ra!!!

Nhờ trong lốt Việt Minh, bọn Hồ đã dựng ra được cái gọi là “cách mạng tháng tám 1945”. Và, để chắc ăn hơn, Hồ cho giải tán đảng cộng sản Đông dương.

Nếu cộng sản có “uy tín trong dân” thì tại sao bọn cộng sản lại tuyên bố giải tán đảng của chúng? Và, còn ma mãnh hơn nữa, trong thư gửi tướng Trần tu Hòa (18), đề ngày 19-12-1945, Hồ khẳng định: “Việt Minh không phải là một đảng chính trị”, mà có nhiều thành phần tham gia.

Có thể ông (và một số người khác) sẽ hỏi: tại sao Hồ lại nắm được chính quyền?

Đúng là Hồ đã nắm được chính quyền, không phải do đảng cộng sản của Hồ được dân tín nhiệm, không phải các đảng phái không cộng sản yếu kém, như sau này các bồi bút cộng sản xuyên tạc sự thật lịch sử.

Đảng cộng sản Đông dương của Hồ có được dân Việt Nam tín nhiệm không, thì chỉ nguyên cái việc vào thời điểm dầu sôi lửa bỏng như vậy mà chúng phải tự giải tán đảng cũng đã là một câu trả lời rõ ràng nhất rồi. Có điều là các đảng phái không cộng sản; các nhân sỹ, trí thức yêu nước; các phong trào quần chúng tự phát; các tổ chức tôn giáo; cho đến cả Hoàng đế Bảo Đại, chính phủ Trần Trọng Kim v.v… đều chỉ biết vui mừng thấy sau khi Nhật đảo chính Pháp thì đến lượt Nhật đầu hàng đồng minh (15-8-1945), nằm yên chờ giải giới. Mọi người đều náo nức thấy sau gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, nền độc lập của đất nước đã lấp ló như rạng đông nên mất cảnh giác dễ dàng để Hồ lừa. Mọi người, mọi tổ chức (trừ Hồ và bọn chóp bu của đảng cộng sản Đông dương) đều đấu tranh cho mục tiêu của độc lập, không có tham vọng thống trị như Hồ và bè lũ cộng sản, vì thế Hồ đã lừa đảo tất cả để cố “cướp lấy chính quyền”, là cái mục tiêu chủ yếu mà thực dân đỏ Nga-xô giao nhiệm vụ cho hắn khi thành lập đảng cộng sản Đông dương từ 1930. Cho nên khi ấy chẳng ai nghĩ đến “cướp chính quyền” trong tay chính phủ Trần Trọng Kim của Hoàng đế Bảo Đại, loại trừ Hồ và bè lũ là có âm mưu đó. Chúng dựa hơi vào các cuộc tuần hành tự phát của quần chúng và của các đảng phái không cộng sản, biến cuộc biểu dương lực lượng lập lờ thành sức ép của quần chúng, và qua tên Tôn quang Phiệt, móc nối với thư ký riêng của Hoàng đế Bảo Đại là Phạm khắc Hòe, để tên này báo cáo láo với Hoàng đế Bảo Đại, khiến Ngài vốn không thích cầm quyền nên đã sẵn sàng thoái vị, trao quyền lại cho toàn dân. Lòng lương thiện cả tin của từ Hoàng đế Bảo Đại cho đến cụ Trần Trọng Kim và các nhân sỹ, trí thức yêu nước đã dễ dàng bị mắc quả lừa của tụi cộng sản.

Thành công bằng sự “tháu cáy” đó nên Hồ sợ phản ứng của nhân dân. Hắn vội vàng mời hoàng đế Bảo Đại làm cố vấn tối cao, cho Phạm khắc Hòe (thư ký của Bảo Đại) làm đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ; mời hầu hết các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim tham gia chính phủ; mời các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, các quan lại cũ như thượng thư Bùi bằng Đoàn (cụ thân sinh của ông Bùi Tín); khâm sai đại thần Phan kế Toại; tổng đốc Hồ đắc Điềm; các tri phủ Tạ quang Đạm, Dương văn Đàm v.v…, dùng Vũ đình Huỳnh, một người gia đình họ hàng là công giáo toàn tòng làm trong ban thư ký, để yên lòng giáo dân và từ đó đi Phát Diệm gặp Đức Cha Lê Hữu Từ mời vào ban cố vấn. Hồ còn đề nghị cấp tiền nuôi dưỡng cho các bà vợ của các vua Thành Thái và Duy Tân; cho in tem chân dung của Nam Phương hoàng hậu. Hồ còn đến Văn miếu dâng hương đức Khổng tử; dự giỗ tổ Hùng Vương, làm kỷ niệm ngày mất của Phan chu Trinh… và đề nghị hoãn lệnh của chính phủ Trần Trọng Kim triệt hồi và truy tố các tham quan (19), xin được hợp tác với các đảng phái không cộng sản, và tuyên bố giải tán đảng cộng sản Đông dương.

Thủ đoạn lưu manh chính trị đó đã giúp Hồ được mọi người coi như là một “nhà nho yêu nước”, nhất là Hồ cho loan tin rằng Hồ là con một phó bảng, một người đã từng được chung sống với cụ Phan chu Trinh ở Paris (Pháp). Và được cụ Phan dạy cho nghề ảnh. Cùng lúc Hồ cho tung tin Hồ giống như công tử Trùng Nhĩ (tức Tấn văn Công trong Đông Chu liệt quốc). Cho nên phần lớn không coi Hồ là cộng sản và sẵn sàng vì việc chung của đất nước mà hợp tác với Hồ.

Cho nên cái gọi là “cách mạng tháng tám” không có đổ máu. Đó là một sự chuyển tiếp hòa bình quyền lực cho toàn dân mà tụi lưu manh cộng sản đội lốt Việt Minh giành phần, bịa đặt “cướp công” thành “cướp chính quyền”; bịa chuyện đánh Nhật, đuổi Pháp mà trên thực tế Pháp đã bị Nhật lật đổ và đến lượt Nhật bị đồng minh bắt hàng không điều kiện. Chỉ đến khi nhận được ấn, kiếm của Hoàng đế Bảo Đại trao cho, tụi cộng sản mới… hơi lòi bộ mặt lưu manh trộm cắp. Đó là việc tên Trần huy Liệu cho giết Phạm Quỳnh và con là Phạm Giao và Trần huy Liệu còn cưỡng ép vợ Phạm Giao làm vợ lẽ của hắn. Hai cha con Phạm Quỳnh, Phạm Giao không liên quan gì đến chính phủ Trần Trọng Kim.

Việt Nam, chính phủ Trần Trọng Kim có thể tạm ví như chính phủ dân chủ Kêrenski ở Nga tháng 2-1917. Và Hồ đã áp dụng kiểu như Lê-nin với Kêrenski. Có điều bọn cộng sản Hồ chí Minh không được quần chúng đông đảo hậu thuẫn, tổ chức mỏng và lực lượng vũ trang có mỗi trung đội của Võ nguyên Giáp và Chu văn Tấn, vì thế Hồ phải giải tán đảng cộng sản Đông dương và chui đầu núp vào danh tiếng của Hoàng đế Bảo Đại, của các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim, của các đảng phái không cộng sản, của các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, của các vị lãnh đạo tinh thần có uy tín, nhằm tạm thời che đậy bộ mặt Việt gian, tay sai của thực dân đỏ Nga-xô.

Nếu không kịp thời giải tán đảng cộng sản Đông dương và lờ đi cái tên Nguyễn ái Quốc, chắc chắn toàn dân Việt Nam sẽ không mơ hồ để phải chịu đựng quãng thời gian làm nô lệ cho thực dân đỏ gần dài bằng nô lệ cho thực dân Pháp (tính cho đến nay).

Mặc dù đa số đang ngây ngất men chiến thắng vì Pháp đổ, Nhật đầu hàng Đồng minh, được tự do đi lại ăn nói hội họp nên mơ hồ, nhưng vẫn không ít người sáng suốt nhìn được rõ con quỷ đỏ dra-cu-la Hồ chí Minh, như Trương tử Anh của Đại Việt, như Lý Đông A, như Khái Hưng, như Ngô đình Diệm v.v… và sau vụ này là Đức Cha Lê hữu Từ, cụ Trần Trọng Kim và cả cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (tức cựu Hoàng Bảo Đại). Vì thế Hồ đã cho mật lệnh thủ tiêu những người yêu nước không là cộng sản, kể cả những nhân vật trotskít như Tạ thu Thâu, Phan văn Hùm… cũng như vu khống, bôi nhọ uy tín của các đảng phái không cộng sản và lãnh tụ của các đảng phái đó.

Khi đã nắm được chức chủ tịch của Chính phủ Liên hiệp, một trong những mối lo hàng đầu của Hồ là phải nắm lực lượng vũ trang. Để tránh lộ liễu, Hồ để những nhân vật không đảng phái hoặc đảng phái khác nắm bộ quốc phòng, cụ thể là cụ Vũ hồng Khanh làm bộ trưởng, thế là VNQDĐ của cụ Vũ hồng Khanh há miệng mắc quai khi Hồ cử các nhà quân sự của VNQDĐ vào Nam, như tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v… Rồi Hồ lấy cớ cần người có uy tín đi ký Hiệp định Sơ bộ 9-3 ở Đà-lạt, để cử cụ Vũ hồng Khanh đi, nghĩa là lột chức đầy quyền lực của Vũ hồng Khanh. Và Hồ đề cử luật sư Phan Anh, một người không đảng phái, từng là bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim, giữ ghế Bộ trưởng Quốc phòng. Như vậy làm sao ai dám ngờ dã tâm của Hồ. Tiếp theo, Hồ cho lập Quân ủy hội song song với Bộ quốc phòng, và cử Võ nguyên Giáp làm chủ tịch Quân ủy hội, và cụ Vũ hồng Khanh, ký hiệp định Sơ bộ 9-3 về, làm phó chủ tịch Quân ủy hội. (20)

Ngày 22-5-1946, Hồ ký sắc lệnh số 71 về việc tổ chức quân đội (hợp nhất của các đảng phái, kể cả bảo an binh của chính phủ tiền nhiệm Trần Trọng Kim) và gọi là Quân đội Quốc gia. (21)

Thời gian đó ở phía Bắc, quân Tàu Tưởng, vào giải giới quân Nhật, gây nhiều chuyện nhố nhăng, quân Pháp lăm le quay trở lại. Còn phía Nam thì lính Pháp theo chân quân đội Anh vào giải giới quân Nhật bắt đầu gây chiến. Cả nước khí thế như núi lửa, thanh niên nam nữ ai cũng muốn gia nhập lực lượng vũ trang. Những nhà giàu bỏ tiền thành lập quân đội, như bà Cát thành Long chẳng hạn, đã nuôi hàng trung đoàn quân và cả hai con trai cùng gia nhập quân đội. Dựa vào khí thế đó, Hồ đã đội lốt Chính phủ Liên hiệp kêu gọi thanh niên nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Các trường quân chính được mọc lên.

Ngày 26-5-1946, Hồ cùng bộ trưởng quốc phòng là luật sư Phan Anh, chủ tịch quân ủy hội là Võ nguyên Giáp lên Sơn-tây dự lễ khai giảng lớp võ bị Trần Quốc Tuấn. Giám đốc trường là huynh trưởng hướng đạo sinh Hoàng đạo Thúy (không đảng phái) thay mặt trường nhận cờ Hồ tặng, có thêu tôn chỉ của quân đội quốc gia là: Trung với nước, hiếu với dân. (22)

Thưa ông Bùi Tín,

Những điều chúng tôi nêu trên là trích dẫn từ sách, báo, hồi ký, tư liệu lưu trữ của cộng sản. Điều đó đã chứng minh rằng cộng sản không phải là kẻ tổ chức và lãnh đạo quân đội.

Vì lòng yêu nước, các đảng phái, các cá nhân không cộng sản đã hòa giải, hòa hợp với nhau và với cả Hồ để cho ra đời Chính phủ Liên hiệp. Cái Chính phủ Liên hiệp đó mới là cha đẻ ra quân đội hợp nhất của các đảng phái, của bảo an binh và mang tên QUÂN ĐỘI QUỐC GIA. Quân đội đó ra đời để bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, với tôn chỉ: TRUNG VớI NUớC, HIẾU VI DÂN.

Từ 1930, theo lệnh thực dân đỏ Nga-xô, Hồ đã thành lập đảng cộng sản đông dương làm công cụ bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ ra toàn cõi Đông dương.

Hồ không phải như Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn văn Linh, chỉ loanh quanh trong 3 miền Bắc, Trung, Nam của Việt Nam, không phải như me-xừ hoạn lợn (mà ông sáng tác thành thợ chữa khóa dạo) là Đỗ Mười, chỉ loanh quanh mấy chợ quê để thiến heo, hay như Lê khả Phiêu, cao nhất là tới đất Căm-bốt lúc đã bị tụi cộng sản thân Tàu tàn phá, mà Hồ từng sống trên khắp các nước Pháp, Anh, Mỹ, Tàu, Thái lan, Nga-xô… Nghĩa là Hồ không chỉ nghe nói mà là đã nếm, đã thử, đã sống trong một loạt xã hội có chế độ chính trị khác nhau. Nghĩa là Hồ có điều kiện thực tế để so sánh cái hơn cái kém của các thể chế chính trị đó. Hồ đã chứng kiến những vụ thanh trừng nội bộ, tàn sát nhân dân, âm mưu bành trướng bá quyền của Stalin. Và, chắc chắn Hồ phải hiểu rõ mục đích thành lập đảng cộng sản Đông dương để làm gì, lợi cho ai, hại cho ai?

Chính vì thế Hồ mới bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp; mới phá cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học; mới giết, bôi nhọ những người yêu nước v.v… Cho nên Hồ đã cố tình xóa bỏ công lao của Chính phủ Trần Trọng Kim đã thổi bùng trở lại tinh thần yêu nước của nhân dân trên toàn cõi Việt Nam; đã tạo ra tiền đề cho sự hòa giải, hòa hợp của toàn dân Việt Nam, để cuối cùng Hồ là kẻ thủ lợi.

Sau khi Tàu cộng làm chủ lục địa, Hồ cho quân đội quốc gia luân phiên qua Tàu để tẩy não, để ồ ạt kết nạp vào cộng sản. Và cuối cùng thì như ông đã viết trong sách của ông rằng: “Đảng lãnh đạo thường xuyên, liên tục, toàn diện và tuyệt đối quân đội ta”.(23)

Kể từ khi hoàn toàn làm chủ được quân đội quốc gia, Hồ đã đánh tráo cái tên quân đội quốc gia thành quân đội nhân dân hoặc “bộ đội cụ Hồ”! Và cái tôn chỉ ban đầu của Quân đội Quốc gia là “Trung với nước, hiếu với dân” bị biến chất thoái hóa thành “trung với đảng, hiếu với dân”; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.


* Chú thích:

Phần I của bài, chúng tôi đã đánh máy nhầm rằng: “Maurice Thorez là tổng bí thư đảng cộng sản Pháp…” Xin vui lòng sửa lại là: chủ tịch đảng cộng sản Pháp…” Trân trọng cáo lỗi cùng quý vị độc giả.

No comments:

Post a Comment