hoan nghênh ông bùi tín
Việt Thường – Nam Nhân – Lý Tuấn
(Phần 2)
Cuối năm 1951, đảng cộng sản Đông dương, từng giả vờ tự giải tán để hoàn thành việc lừa đảo toàn dân Việt Nam, lộ diện trở lại với cái tên hiền lành và mơ hồ hơn gọi là “đảng Lao động Việt Nam”. Kể từ đó, mọi chính sách của Hồ đều nhằm vô hiệu hóa sự hoạt động của Quốc hội khóa 1 (của nhiều đảng phái không cộng cộng sản), tiến tới âm thầm đảo chính Chính phủ Liên hiệp. Gọi là đảo chính âm thầm, vì Hồ chỉ cốt tước thực quyền của thành viên chính phủ không là cộng sản, lưu giữ họ lại làm bù nhìn nhằm lèo lái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp thành cuộc chiến của thực dân đỏ nhằm giành giật 3 nước Đông dương trong tay thực dân Pháp.
Tuy đã nắm trọn quyền về lực lượng vũ trang, nhưng Hồ còn muốn lực lượng vũ trang phải hoàn toàn trung thành mù quáng đối với Hồ. Vì thế hắn đã sai Lê văn Lương, trưởng ban tổ chức trung ương, ký quyết định về “chế độ ngày sinh hoạt đảng trong quân đội” vào ngày 15-3-1954. (24)
Và biện pháp chủ yếu Hồ dùng để làm đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp là “giảm tô và cải cách ruộng đất” và “chấn chỉnh tổ chức”.
Để che giấu âm mưu đen tối nói trên, trong phiên họp ngày 15-3-1954 của hội đồng chính phủ, Hồ đề nghị thông qua điều lệ tổ chức ủy ban cải cách ruộng đất trung ương và danh sách các ủy viên của ủy ban này.
Âm mưu đó bộc lộ trắng trợn trong “Thông tri của ban bí thư”(25) do Lê văn Lương ký ngày 22-5-1954, gửi các Liên khu ủy Việt Bắc, III, IV, khu ủy Tây Bắc và các Đoàn ủy cải cách ruộng đất và giảm tô. Trong thông tri có những đoạn đáng chú ý như:
“Ban thường trực ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương phụ trách giải quyết công việc hàng ngày gồm một số đồng chí trung ương (tức cộng sản). Như vậy rất tiện cho Trung ương dùng danh nghĩa công khai để chỉ đạo công tác phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất.”
… “Phải coi những chỉ thị, thông tri ấy như của trung ương Đảng và phải chấp hành nghiêm chỉnh.”
“Những vấn đề thuộc về nội bộ Đảng hoặc cần giữ bí mật không tiện dùng danh nghĩa công khai, Trung ương (tức cộng sản) sẽ gửi cho các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy, và các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy cũng báo cáo trực tiếp lên trung ương (tức cộng sản) những vấn đề thuộc nội bộ đảng.”
Cái “cần giữ bí mật” đó là mượn cớ cải cách ruộng đất để thanh lọc tận cơ sở những đảng phái, cá nhân, tổ chức không là cộng sản và cả những đảng viên cộng sản mà Hồ “mở cửa đảng” tổ chức kết nạp ồ ạt. Giờ đây thành phần tổ chức đảng ở cơ sở phải đảm bảo “trung với đảng” như quân đội vậy. Nghĩa là phải trung với Hồ, hay nói cách khác là phải trung với mẫu quốc đỏ Nga-xô.
Kết thúc cái gọi là “rèn cán, chỉnh quân” và thường xuyên thanh lọc qua “Quyết định về chế độ ngày sinh hoạt đảng trong quân đội”, được ký ngày 15-3-1954, thì kể từ đó cái gọi là quân đội nhân dân Việt Nam thực chất là ngụy quân. Nhiệm vụ của ngụy quân cộng sản là hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào mà đảng – tức nhóm lãnh đạo chóp bu – ra lệnh.
Sau cải cách ruộng đất, chấn chỉnh tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh thì Việt Nam (phía Bắc sau 1954 và cả nước sau 30-4-1975) thưc tế là thuộc địa đỏ, bị cai trị bởi tụi cộng sản là tổ chức Việt gian, tay sai của thực dân đỏ Nga-Tàu.
Dám nhìn vào sự thật mới có thể lý giải được vì sao các chính sách của cộng sản đề ra đều chống lại quyền lợi của nhân dân và đất nước Việt Nam, từ khi Hồ còn sống cho đến tất cả lũ thừa kế Hồ là Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu và nay là Nông đức Mạnh.
Dám nhìn vào sự thật này mới hiểu tại sao cái gọi là quân đội nhân dân Việt Nam lại có thể pháo kích vào trường học, chợ búa, nhà thờ, đền chùa, giết dân như vụ tàn sát gần 2 vạn người Mèo ở hai huyện Phó Bảng và Mèo Vạc ở Hà-giang; tàn sát giáo dân ở Nghệ-an, Quảng-bình; tàn sát nhân dân ở Huế (1968); xâm lược miền Nam Việt Nam, trấn áp và tàn sát đồng bào thiểu số ở Tây-nguyên; sau 30-4-1975 đã tàn phá các thành thị ở miền Nam khiến trong cuốn “Mặt thật” ông đã phải viết rằng: “xử sự như những đội quân chiếm đóng”.
Thưa ông Bùi Tín,
Ông đã tiệm cận với sự thật. Chúng “xử sự như những đội quân chiếm đóng” là vì cái sự thật rành rành mà ông chưa muốn thấy. Đó là:
Cái gọi là quân đội nhân dân Việt Nam thực chất là NGỤY QUÂN, công cụ của tập đoàn Việt gian cộng sản Việt Nam, tay sai của đế quốc đỏ Nga-Tàu.
Hòa giải và hòa hợp
Trong cuốn “Mặt thật”, ông đã để nhiều trang nói về “hòa giải hòa hợp”. Cũng từ chỗ đứng đặc biệt của ông, nên về vấn đề này ông đã nhận xét và lý giải xa với thực tế và mâu thuẫn với chính ông nữa.
Ông đã viết: “Trong cộng đồng người Việt, cũng có ý kiến cực đoan cho rằng đối với cộng sản, không có vấn đề hòa giải và hòa hợp gì hết, chỉ có vấn đề buộc họ phải rút lui, chỉ có vấn đề họ phải giao quyền (rút lui như thế nào và giao quyền ra sao thì có người không phát biểu rõ được) vì họ là kẻ có tội, phá hại đất nước… Đây là lối nhìn trịch thượng, không thực tế. Còn cần tạo nên nhiều sức ép trong và ngoài nước mạnh mẽ mới có thể ép những người lãnh đạo Đảng Cộng sản chấp nhận bầu cử dân chủ thực sự theo quan điểm đa nguyên.
Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, những người có cách nghĩ cực đoan không nhiều, số này lại giảm đi rõ rệt”. (26)
Khi viết những giòng trên, chúng tôi nhận thấy ngòi bút của ông lại quay về lối mòn của Phó tổng biên tập báo Nhân dân, nghĩa là người nghĩ, nói và viết đúng với lập trường của tập đoàn đầu lãnh Việt gian cộng sản.
Không cần trích dẫn những tài liệu khác, chỉ cần dựa vào những điều ông đã viết trong hai cuốn “Hoa xuyên tuyết” và “Mặt thật”, đủ chứng minh tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh và cái đảng của chúng đã gây bao tội ác và phá hoại đất nước Việt Nam như thế nào. Thế mà ý kiến không chấp nhận chúng, buộc chúng phải rút lui lại bị ông khép cho tội trịch thượng! Trong con mắt của ông thì lũ bán đất, bán biển cho Tàu cộng; giết dân lành; đàn áp tôn giáo; bỏ tù, giết hại những người nói lên chút sự thật, là thượng. Vậy người dân là hạ chăng? Nên không có quyền lật đổ thượng?
Khi ông cầm bút viết hai tiếng “trịch thượng” thì tự thân hành động đó đồng nghĩa với việc tán thành điều 4 trong Hiến pháp 1992 của cộng sản, giành cho chúng độc quyền là chủ của nhân dân và đất nước Việt Nam, không ai được quyền buộc chúng rút lui. Hành động đó bị ông xếp là “cực đoan”, là “trịch thượng”. Chữ nghĩa này từ mồm cái loại ít học “bò tót” như Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Lê đức Anh, Chu huy Mân và ngay cả Trần Độ v.v… còn có thể hiểu được. Còn ở miệng ông Bùi Tín, đang kêu gọi “hòa giải hòa hợp”, xây dựng… dân chủ đa nguyên, thì quả thực chúng tôi không thể hiểu nổi!!!
Thật “đại mâu thuẫn với bản thân”, khi ngòi bút của ông trong “Hoa xuyên tuyết” đã viết rằng: “… Mà lãnh đạo thì rất sợ đổi mới về chính trị, họ sẻ mất quyền, cả quyền lãnh đạo và quyền lợi riêng. Đất nước bất hạnh chính là vì thế – “Thế cùng tất biến”, nhiều người nói như vậy. Vì đó là quy luật. Nhưng lại là quy luật xã hội. Cứ chờ thì không ổn, biết bao giờ mới thay đổi! Phải có sự thức tỉnh, có ý chí, có hành động của con ngưới! Nếu không sức ỳ sẽ lì lợm tồn tại.”(27)
Rồi ông viết tiếp: “Tôi không mong chờ gì ở sự tỉnh ngộ, thức thời của những người lãnh đạo. Họ đã khác xưa quá nhiều rồi! Có hai đức tính cần thiết nhất cho người lãnh đạo thì ở họ quá nghèo nàn. Đó là đức tính biết lắng nghe, tiếp nhận những điều hay, lẽ phải, và đức tính biết thích ứng chủ động với những biến chuyển đi lên của thế giới này.”(28)
Khi viết những đoạn văn ở trên, rõ ràng ông thấy, đối với tụi lãnh đạo cộng sản Việt Nam đương quyền, không thể nói lý lẽ được, mà chỉ có cách lật đổ – tức buộc chúng rút lui – đúng như quan điểm của những người Việt ở nước ngoài mà ông chụp cho cái mũ “cực đoan”.
Ông còn đi xa hơn nữa khi coi chính sách “hòa giải và hòa hợp” là vô hiệu, như ông đã viết: “Ngay cả những lực lượng ở ngoài nước, có tinh thần dân tộc và dân chủ, đề xướng hoặc tán thành hòa giải và hòa hợp cũng hầu như không có tác dụng gì đối với trong nước.(29)
Thật là: “Mâu thuẫn! Mâu thuẫn! Đại mâu thuẫn!!!” Nhưng điều đó đã phản ánh đúng cái thế éo le của ông: Một nhà báo thức thời trong con người cộng sản có quyền!
Thưa ông Bùi Tín,
Sau khi ký được cái hiệp định Paris 1973 về Việt Nam thì trên thực tế quân Mỹ không còn ở miền Nam Việt Nam nữa. Trong khi đó, tại Bắc Việt Nam, vẫn còn cố vấn Nga-xô, Tàu cộng, núp dưới cái tên chuyên gia nước bạn; vũ khí Nga-xô – Tàu cộng vẫn tiếp tục được đưa vào cả qua ngã phía Bắc (tức qua cửa Nam quan) lẫn phía Nam, qua cảng Kôm-pông-cham của Căm-bốt. Từ xe tăng hiện đại T54 đến tên lửa Sam; từ xăng dầu, xe vận tải các loại cho đến các loại thuốc men, lương khô; hệ thống truyền tin hiện đại cho đến quân phục, quân trang. Và không chỉ binh lính cộng sản ở phía Bắc ngang nhiên ào ào tràn vào Nam công khai, mà còn đủ loại cán bộ từ Bắc đưa vào như công an, báo chí, văn nghệ sỹ, y tế, các đoàn văn công và các đoàn chiếu phim lưu động v.v…
Cho nên những mẫu chuyện về việc Nga-Tàu đều không muốn Hà-nội xâm lược Việt Nam Cộng Hòa chỉ là chuyện bá láp ở quán cà-phê vĩa hè mà thôi. Còn trên thực tế, nếu không muốn thì chỉ cần ngưng một vài thứ như dầu xăng và quân trang cùng thuốc men thì quân cộng sản Hà-nội không lẽ học cách của Quang Trung, 3 anh cáng lẫn nhau, và cởi truồng, ngậm viên “xuyên tâm liên” mà Nam tiến được chăng?
Như thế là, trên thực tế, sau hiệp định Paris 1973 về Việt Nam, cuộc chiến tiếp diễn đã lột mặt nạ “chống Mỹ cứu nước” của cộng sản Hà-nội, phơi bày rõ bộ mặt Việt gian, tay sai của Nga-Tàu, xâm lược nước Việt Nam Cộng Hòa. Điều đó không phải là mới mẻ, mà nó nằm trong lộ trình của đế quốc đỏ Nga-Tàu từ khi giao cho Hồ chí Minh nặn ra cái tổ chức Việt gian, mang tên đảng cộng sản Đông dương từ 1930!
Nếu có một lúc nào đó Tàu cộng không hài lòng với lũ tay sai cộng sản Việt Nam, thì đó chỉ là mâu thuẫn của hai tên đế quốc đỏ Nga-Tàu mà thôi. Vì thế nên, Tàu cộng đã chuẩn bị sẵn đầy tớ thay thế. Đó là tụi Khơ-me đỏ.
Thực ra Khơ-me đỏ làm cái việc gọi là “diệt chủng”, chủ yếu là, theo lệnh quan thầy Tàu cộng để thanh lọc hết tụi thân cộng sản Hà-nội; tụi do cộng sản Hà-nội nuôi cấy từ 1930, nhất là trong giai đoạn mượn đất Mỏ Vẹt của Căm-bốt làm thánh địa trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, men say chiến thắng sau 4-1975, bọn cộng sản Hà-nội hiện nguyên hình là tay sai trung thành của mẫu quốc Nga-xô qua “Hiệp ước hòa bình và hữu nghị” với Nga (1978) thì Trung cộng phải ra tay. Và, hai đế quốc đỏ Nga-Tàu qua lũ tay sai Việt gian cộng sản Hà-nội và Miên gian Khơ-me đỏ, đánh chém nhau bằng xương máu của người Việt Nam và người Miên. Tuy nghe phũ phàng, nhưng đó là sự thật trăm phần trăm được bóc trần khỏi mớ lý luận “hàn lâm” nhưng “mơ hồ”!!!
Dám nhìn vào sự thật này thì ông mới lý giải đuợc tại sao những Lê đức Thọ, Chu huy Mân, Lê đức Anh… cũng như binh lính cộng sản Việt Nam tự coi mình là ông chủ trên đất Căm-bốt; và ngay đối với nhân dân, quân đội của nước Việt Nam Cộng Hòa cũng bị chúng phân biệt đối xử. Khi cần đánh lừa thì chúng gọi là người Việt Nam với nhau. Khi lừa được rồi thì chúng gọi là ngụy, là phản động.
Cái bẫy “hòa giải và hòa hợp” là do tập đoàn Việt gian cộng sản Hà-nội chế tạo sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa. Cái bẫy đó được tụi tay sai của chúng nằm vùng ở Việt Nam Cộng Hòa cùng lũ “nón tai bèo thành thị”, tức tụi gọi là thành phần thứ ba; cùng lũ trí thức, nhà văn, nhà báo đói thông tin, táo bón kiến thức; cùng lũ Chí Phèo tập tọng làm chính trị… rao bán, quảng cáo ầm ĩ để phá hoại tinh thần của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, bị lẫn lộn thực, giả, làm nản lòng chiến sỹ VNCH ngoài chiến trận. Vi thế mới có ngày Quốc hận 30-4-1975!
- Tin vào “hòa giải – hòa hợp” nên mới có chuyện “đóng tiền đi học tập 10 ngày”;
- Tin vào “hòa giải – hòa hợp” nên mới mơ hồ tin vào việc “duy trì 5 thành phần kinh tế”;
- Tin vào “hòa giải – hòa hợp” nên các nghĩa trang, mồ mả của quân dân, cán, chính mới bị tụi xâm lược cộng sản san bằng, ủi bỏ;
- Tin vào “hòa giải – hòa hợp” nên có nhiều người đã đấu tranh để từ đảo Guam trở về… trại cải tạo Gia Trung!
- Tin vào “hòa giải – hòa hợp” nên hầu như chưa có mấy ai nghĩ đến “vượt biên bằng mọi giá”
- Kết quả của cái “hòa giải – hòa hợp” đó là quân, công, cán, chính của VNCH được đi tù không án, học tập “bóp cứt tươi cho nhuyễn” để tưới rau, như việc làm hàng ngày của trung tướng Huỳnh văn Cao và v.v…; dùng tay không để khai hoang v.v…; vợ con đi lên rừng để… chết cho tiện đất chôn; nhà cửa, xe cộ, đồ đạc để lại cho binh lính, cán bộ cộng sản “hòa hợp”.
- Kết quả của cái “hòa giải – hòa hợp” đó là thanh niên, con cái người dân Việt Nam Cộng Hòa bị bắt đi lính đánh thuê cho thực dân đỏ bên Căm-bốt mà chỉ riêng số què quặt theo số liệu của ông cung cấp là 300 ngàn; chưa kể số chết và mất tích, tổng cộng hàng triệu!!!
Sau khi bị lừa vào cái bẫy “hòa giải – hòa hợp” lần thứ nhất đó, không chỉ trên đất nước VNCH, cột đèn nếu có chân cũng muốn vượt biên, mà cả nhân dân ở phía Bắc Việt Nam, trong bàn tay huấn luyện và giáo dục của tập đoàn Hồ chí Minh gần một phần tư thế kỷ, cũng… tay không vượt biên bằng mọi giá.
Cái giá đó là trung bình cứ 3 người ra đi thì một người xin làm dân của Neptune. Số đó xấp xỉ nửa triệu. Chưa kể phải chịu đựng hải tặc cướp đoạt, hãm hiếp tập thể và phải… ăn thịt lẫn nhau!!!
Xin ông cho biết, trong lịch sử Việt Nam, từ thời Hồng Bàng đến nay, có thời kỳ nào diễn ra cảnh tương tự không?
Cuộc chạy nạn thực dân đỏ của người Việt Nam đã gây súc động trong nhân loại tiến bộ. Cái cộng đồng đó quần tụ lại, vượt bao khó khăn để có sự thành đạt như ngày nay.
Cộng đồng người Việt hải ngoại phải bỏ mồ mả nhà cửa lưu vong vậy mà lũ Việt gian cộng sản Hà-nội, tay sai Nga-xô – Tàu cộng, còn qua mồm tên Phạm văn Đồng, qua hệ thống truyền thông, báo chí, đặc biệt là báo Nhân dân, để chửi cái cộng đồng đó là đĩ điếm, lưu manh, trộm cắp, lười lao động, phản động, Việt gian v.v…
Cho đến khi cái cộng đồng quá lương thiện và tài ba này, hàng chục năm nay, mỗi năm gửi về trên 2 tỷ đô-la (nghĩa là bằng 1/3 tổng sản lượng của Sài-gòn, mà tổng sản lượng của cả Sài-gòn chiếm 60% của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam) thì được cho đi tàu bay giấy là Việt kiều yêu nước, là khúc ruột xa ngàn trùng.
Ôi! Cái lưỡi của tập đoàn Việt gian cộng sản Hà-nội, y hệt cái lưỡi heo của Ê-dốp!!!
Và thế là lũ cộng sản nằm vùng ở hải ngoại; lũ “nón tai bèo mới” lẫn trong cộng đồng; lũ trí thức, viết văn, viết báo mù thông tin; lũ bị bệnh teo gan chủ hàng v.v… bắt đầu thổi kèn, đánh trống, quảng cáo bán lại món hàng “cạm bẫy tồn kho”. Đó là luận điệu “hòa giải – hòa hợp.”
Xin ông chú ý cho rằng:
- Sự “hòa giải – hòa hợp” giữa nhân dân Nam và Bắc đã có ngay sau 1975. Điều đó chẳng cần ai kêu gọi cả. Đó là sự gắn bó, cảm thông tự nhiên giữa những người đồng cảnh. Vì tất cả đều là dân nô lệ của thực dân đỏ thông qua sự cai trị của tập đoàn Việt gian cộng sản khát máu.
- Cộng đồng người Việt ở hải ngoại và nhân dân Việt Nam ở trong nước cũng chẳng cần ai phải nhắc nhở “hòa giải –hòa hợp” cả. Chứng cớ hùng hồn là hàng năm người Việt ờ hải ngoại đã đổ về quốc nội hơn 2 tỷ đô-la mà không kèm một điều kiện nào!!!
Vậy luận điệu mập mờ về “hòa giải – hòa hợp” được đưa ra nhằm vào những nhóm người nào?
- Những người với tư cách tỵ nạn cộng sản để hình thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại không thể hòa giải – hòa hợp với tập đoàn Việt gian cộng sản, tay sai của đế quốc đỏ Nga – Tàu. Lý do rất đơn giản:
1) Vì chấp nhận “hòa giải – hòa hợp” với chúng nên mới phải lưu vong xứ người. Có lẽ nào còn ngu xuẩn, điên rồ đến mức bước lần thứ hai vào cái cạm bẫy “hòa giải – hòa hợp” đó nữa không? (!!!)
2) Điều 4 hiến pháp 1992 của cộng sản ghi rõ quyền duy nhất làm chủ cả con người, cả đất nước Việt Nam cho tập đoàn Việt gian cộng sản. Vậy có nên ngu như lừa để đâm đầu về “hòa giải – hòa hợp” với quân xâm lược, làm nô lệ cho chúng không? Mà chúng là ai? – Đó là những tên thiến heo Đỗ Mười, có bệnh điên; Lê đức Anh, cai ác ôn đồn điền cao-su của thực dân Pháp; thằng con hoang Nông đức Mạnh… tất cả bọn chúng vẫn lấy “tư tưởng”, lấy “đạo đức” của Hồ chí Minh làm khuôn vàng, thước ngọc cho việc trị dân. Mà Hồ là ai? Đó là tên, theo “Hoa xuyên tuyết” và “Mặt thật”, là kẻ răm rắp tuân lệnh quan thầy Stalin, là kẻ sùng bái “mặt trời phương đông”, nể sợ “thiên triều” Bắc kinh,(30) và hắn đã “truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh… cho cả đảng cộng sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ.”(31)
Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại đã thoát cảnh “chim lồng, cá chậu” nay có đủ tỉnh táo để nghe bọn cò mồi mà “rúc đầu vào lồng, đắm mình trong chậu” để rồi khi bị trấn lột đến đồng USD cuối cùng, sẽ lại… tỵ nạn lần nữa chăng?(!!!)
- Liệu cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại có thể “hòa giải – hòa hợp” với những người “cộng sản lương thiện” (chữ nghĩa của ông Bùi Tín) được không?
Thưa ông Bùi Tín,
Trong cuốn “Mặt thật”, ông đã viết: “Tầng lớp quan chức đặc quyền đặc lợi ở Việt Nam hình thành dần dần kể từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Trong 30 năm chiến tranh, tầng lớp này đã thành một lớp người riêng biệt, tách dần khỏi cuộc sống và mức sống của toàn xã hội.”(32)
Tầng lớp này chính là toàn bộ cái gọi là ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam và các cán bộ trung cao của nó ở mọi ngành. Nghĩa là trong đó có trung tướng cộng sản Trần Độ, ủy viên trung ương đảng cộng từ khóa 3 (1960) đến hết khóa 7 (1991), và cả ông – đại tá cộng sản Bùi Tín.
Và tầng lớp đó, trong cuốn “Mặt thật”, ông mô tả: “Sau “đổi mới”, từ năm 1986, tầng lớp này đua nhau kiếm chác, tận dụng thị trường tự do, luật pháp còn nhiều sơ hở, dựa vào quyền lực và các mối quan hệ trên dưới, họ hàng, thân thuộc, cùng nhau móc ngoặc để kiếm chác trên lưng nghèo khổ của quân chúng lao động. Từ sau đại hội 7 giữa 1991, tầng lớp đặc quyền đặc lợi càng thêm biến chất cách mạng, lao vào tước đoạt và chia chác của cải xã hội, làm giàu nhanh chóng một cách phi pháp; nó ngày càng mang tính chất mafia bất lương và tàn ác, một kiểu tư bản đỏ, rừng rú mà lịch sử Việt Nam chưa từng có.”(33)
Nếu những người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại kiên định ý kiến: “không có vấn đề hòa giải và hòa hợp gì hết, chỉ có vấn đề buộc họ phải rút lui, chỉ có vấn đề họ phải giao quyền…”(34), bị ông cho là “trịch thượng” và “không thực tế”. Thì theo ông, việc “hòa giải – hòa hợp” với lũ “mafia bất lương và tàn ác, một kiểu tư bản đỏ, rừng rú mà lịch sử Việt Nam chưa từng có” như thế, sẽ được gọi là hành động gì? Ông có thấy rằng ông rất mâu thuẫn với chính ông không?
Loại trừ tầng lớp “mafia bất lương, tàn ác” nói trên, ông đả nhận định rằng: “Đảng có gần 2 triệu người, trên tổng số hơn 70 triệu dân. Nhưng thật ra trong số 2 triệu đảng viên ấy, đông đảo đảng viên thường, chiếm đến 90%, không có chút tiếng nói và quyền lực nào. Họ chẳng khác gì mấy với quần chúng ngoài đảng. Họ cũng thấp cổ bé họng, cũng bị tước đoạt quyền suy nghĩ và quyền tự do ngôn luận, chỉ có cúi đầu và vỗ tay tán tụng các nghị quyết của đảng.”(35)
Qua cách trình bày của ông, chúng tôi nhận thấy ông chia đảng viên cộng sản Việt Nam ra làm 2 loại:
1- Loại đặc quyền đặc lợi (10%), mà ông coi chúng là “mang tính chất mafia bất lương và tàn ác”. Vậy mà những người Việt ở hải ngoại không chấp nhận “hòa giải – hòa hợp” với chúng thì bị ông coi là cực đoan. Khi đặt vấn đề vì chúng là kẻ có tội, phá hại đất nước, phải rút lui, phải giao quyền…, thì ông lại cho rằng như thế là trịch thượng, không thực tế. Sự loanh quanh trong lý giải của ông vẫn chỉ là muốn “hòa giải – hòa hợp” với bọn mà ông gọi là “mafia bất lương và tàn ác”. Ngay chính ông, cũng đã từng nằm trong số “đặc quyền đặc lợi ấy”, vậy thử hỏi ông có “hòa giải – hòa hợp” với chúng được không?
Chúng tôi nghĩ rằng chỉ có những kẻ ít nhiều cũng bất lương và tàn ác mới muốn “hòa giải – hòa hợp” với chúng để mở rộng thêm thành phần đặc quyền đặc lợi. Tổ tiên ta đã dạy: “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” ông ạ!!!
2- Loại đảng viên thường (90%) như cách gọi và ước lượng của ông, mà ông còn cho đó là lương thiện.
Chúng tôi chỉ xin nhắc lại ý của ông, rằng: “Sau khi đã giành được chính quyền, động cơ vào đảng đã xen lẫn tinh thần tự nguyện hy sinh với động cơ cá nhân: trở nên cán bộ có chức có quyền và từ đó có quyền lợi riêng. Càng về sau động cơ cá nhân càng chiếm ưu thế, để từ sau 1954, hầu như động cơ cá nhân vào đảng ở các cơ quan chính trị, kinh tế, xã hội, ở các địa phương chỉ là để trở thành cán bộ có chức có quyền nhằm tiến thân.”(36)
Ông rất trung thực viết những giòng trên, chỉ thiếu sót tý chút là cái động cơ vị kỷ, vị lợi vào đảng cũng có cả ở trong lực lượng vũ trang (binh lính, công an, cảnh sát) và văn hóa, giáo dục… Nếu không làm sao loại như Trần Độ, “văn còn dốt vũ còn… ngu”, mà từ 1946 nhờ là lính hầu của Trường Chinh, nên nhảy một phát thành “chính trị viên” của trung đoàn thủ đô (!!!); Nguyễn chí Thanh thành đại tướng; anh chàng Vũ đức Phúc, giáo viên cấp I, xuất thân từ thổi loa thông tin ở phố huyện Gia-lâm, (Hà-nội) thành Viện phó Viện văn học; anh giáo viên lớp 3 tỉnh lẻ Lạng-sơn là Vũ Khiêu thành Viện trưởng Viện Mỹ học Marx-Lênin; một anh biết đọc biết viết còn “chậm như rùa” là Phạm Hồng trở thành Phó chủ nhiệm ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài; hay một chàng học chưa xong cấp 2 phổ thông như Hồ Trúc, thành thứ trưởng bộ giáo dục, và v.v…, kể sao hết được những loại giun dế đó!!!
Đại tá nhà báo như ông thì hiển nhiên ông phải biết trong lực lượng vũ trang của cộng sản, tụi giữ chức chính trị viên hay chính ủy là lũ ngu nhất nhưng lại là lũ có quyền sinh sát nhất và cũng là lũ công thần chủ nghĩa. Những người ở miền Nam Việt Nam và nhất là ở hải ngoại nghe mấy tiếng “chính trị viên” hay “chính ủy” tưởng giỏi lắm, có biết đâu đó chính là tụi như quân SS của Hitler. Tụi đó là hình hài Việt Nam, nhưng mang tâm hồn “nô lệ đỏ”. Chúng chính là kẻ huấn luyện, uốn nắn, gò ép lực lượng vũ trang thực hiện tôn chỉ hàng đầu là trung với đảng.
Tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh và lũ thừa kế còn tồn tại được chính là dựa vào “công cụ chuyên chính” này (lính và công an) mà nòng cốt tai, mắt của chúng chính là lũ “chính trị viên” và “chính ủy”. Bao tội ác tàn bạo của lực lượng ngụy quân cộng sản đều do bọn “chính trị viên” và “chính ủy” giáo dục, kích động và chỉ huy. Và, cũng chúng là kẻ có đặc quyền quyết định cho ai làm “cảm tình viên của đảng”, cho ai “vào đảng”. Chúng là tai, mắt của Hồ xưa kia, và của lũ đầu lãnh kế nghiệp Hồ cho tận bây giờ trong từng đơn vị to, nhỏ của lực lượng ngụy quân cộng sản.
Về lũ đảng viên thường mà ông cho rằng chúng “chẳng khác gì mấy với quần chúng ngoài đảng… cũng thấp cổ bé họng”… là hoàn toàn sai và ông lại một lần nữa tự mâu thuẫn!
Trước hết, dân số Việt Nam hiện nay là 82 triệu. Đảng viên cộng sản có 2 triệu đứa. Cứ cho cái đứa “thấp cổ bé họng nhất” trong số 2 triệu tên, thì, hắn cũng được tụi đầu lãnh cộng sản Việt gian coi trọng hơn 80 triệu dân thường, mang cái tên “quần chúng của đảng” – mà nghĩa đen là nô lệ của đảng!
Làm sao bọn chúng lại giống “quần chúng ngoài đảng” được. Quyền “ăn trên ngồi chốc” của bọn chúng được “điều 4, hiến pháp cộng sản 1992” bảo đảm chắc như bắp, ông đã quên rồi sao? Nếu các tội ác như giết dân, phá hại đất nước… là từ những cái đầu Việt gian của tập đoàn cộng sản chóp bu nghĩ ra, thì chính cái lũ “đảng viên thường” này là kẻ thi hành. Tỷ dụ: phó chính ủy cộng quân ở miền Nam, là Trần Độ, chỉ nghĩ ra biện pháp “pháo kích trường học, chợ búa, bệnh viện”… để gây hoang mang, bất ổn trong đời sống của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, chứ hắn đâu có trực tiếp bắn. Mà chính là lũ “đảng viên thường” trong ngụy quân cộng sản trực tiếp bắn giết hoặc thúc ép binh lính chưa là đảng viên phải bắn giết.
Chính ông đã hạ bút viết rằng: “Càng về sau động cơ cá nhân càng chiếm ưu thế, để từ sau 1954, hầu như động cơ cá nhân vào đảng ở các cơ quan chính trị, kinh tế, xã hội, ở các địa phương chỉ là để trở thành cán bộ có chức có quyền nhằm tiến thân”(37)!!!
Vào đảng với cái lý tưởng như vậy thì làm sao lương thiện được!(?) Cũng là phường hút máu mủ của dân mà thôi. Có điều thân phận dòi bọ, ruồi muỗi thì lép vế hơn, nhưng vẫn là loại hút máu dân.
Trường hợp này ông dùng chữ cũng chưa chính xác. Bởi vì đối với tụi cộng sản và ngay cả những đứa nâng bi tụi cộng sản cũng không thể dùng cụm từ lương thiện được. Bọn chúng chỉ là đại bất lương hoặc ít bất lương. Muốn bắt đầu cuộc sống lương thiện thì hành động đầu tiên là phải ra khỏi đảng cộng sản. Khác nào gái điếm muốn hoàn lương thì phải ra khỏi động điếm; chứ làm gì có chuyện “phấn đấu” vào làm điếm trong động mà vẫn trong trắng, ngây… thơ!!!
Vì thế cho nên làm sao lại mơ hồ, u mê để có thể “hòa giải – hòa hợp” với đảng viên thường được. Nếu họ đủ liêm sỉ để thấy được nỗi nhục “bị tước đoạt quyền suy nghĩ và quyền tự do ngôn luận, chỉ có cúi đầu và vỗ tay tán tụng các nghị quyết của đảng” như ông viết, thì họ nên vứt thẻ đảng trở về hội nhập với đại dân tộc. Hành động đó là sự “hòa giải – hòa hợp” rồi. Đâu cần phải đặt vấn đề này ra nữa. Nếu 90% đảng viên là đảng viên thường mà vứt thẻ đảng thì cái lũ đầu lãnh Việt gian cộng sản kể như mạt rệp. Và sáu tiếng “độc lập, tự do, hạnh phúc” sẽ nhanh chóng thành hiện thực cho toàn dân Việt Nam và đất nước Việt Nam.
Một vấn đề khác được được đặt ra. Đó là cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản xâm lược ở hải ngoại có “hòa giải – hòa hợp” với những người hiện nay được gọi là “tiếng nói đấu tranh” cho dân chủ ở trong nước không?
Câu trả lời là có. Nhưng là có với một số điều kiện.
Trước hết, cần ghi nhớ rằng chúng ta là những người tỵ nạn cộng sản xâm lược.
Ước nguyện của chúng ta và cũng là mục tiêu của chúng ta là hòa giải – hòa hợp với mọi lực lượng trong và ngoài nước Việt Nam nhằm chống ách độc tài cai trị của bè lũ cộng sản Việt Nam tiếm quyền, xây dựng một đất nước Việt Nam nhân quyền được tôn trọng, mọi quyền tự do được thi hành, bình đẳng giữa các sắc tộc dân, bảo vệ trọn vẹn tài nguyên thiên nhiên, lãnh thổ, lãnh hải và không phận của Tổ quốc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, góp phần bảo vệ sự chung sống hòa bình và bình đẳng giữa các quốc gia trên toàn thế giới.
Cho nên, dù ở ngoài nước hay trong nước, bất cứ cá nhân nào, nhóm nào, tổ chức đảng phái nào thực sự, thực lòng đấu tranh nhằm những mục tiêu nói trên đều là đối tượng “hòa giải – hòa hợp” trong bình đẳng và hiệu quả.
Vì thế không thể cứ thấy cá nhân nào trong bọn cộng sản “ngã ngựa” là vội coi như họ đấu tranh cho dân chủ. Thí dụ tên khát máu Nguyễn hà Phan hay Đào duy Tùng… bị hất ra khỏi chính trị bộ; những tên Bùi thiện Ngộ, Bùi quốc Huy… hạ bệ bọn Dương Thông, Quang Phòng. Hoặc trước đó là những tên tướng Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn, Phan Bình…, kẻ chết một cách bí ẩn, kẻ bị ám sát cả cha lẫn con v.v… Rồi lại nữa, tên Tố Hữu bị ra khỏi chính trị bộ sau vụ giá, lương, tiền; tên Trần bạch Đằng thì không tài nào tóm được cái ghế dù là ủy viên dự khuyết trung ương. Các tên Vũ đình Liệu, Nguyễn ngọc Trìu thì văng ra khỏi hai cái ghế phó thủ tướng và gần đây là vụ Lê khả Phiêu, Lê minh Hương và Trương tấn Sang v.v… Nhiều thí dụ đại loại như vậy. Bọn chúng rớt đài là vì đấu đá phe phái mà thôi. Hệt như cái vụ gọi là “xét lại chống đảng”, cũng chỉ là khi ấy tụi Việt gian theo Mao được Hồ cho phép bóp cổ tụi Việt gian theo Brê-giơ-nép, vì bọn chúng làm ảnh hưởng đến kế hoạch đu dây của Hồ giữa anh cả Nga-xô và anh Hai Ba Tàu, nhằm nhận được “viện trợ” của cả hai cho kế hoạch vũ trang xâm lược Việt Nam Cộng Hòa của Hồ.
Xin tạm điểm vài tên đầu trò của nhóm “xét lại” để xem chúng là kẻ có tội đến mức nào. Dương bạch Mai, kẻ cùng Trần văn Giàu là hai tên chủ chốt trong vụ sát hại các giáo phái ở miền Nam Việt Nam trong các năm 1945-46 hàng chục vạn người. Nguyễn văn Trấn là kẻ âm mưu cài người vào các tổ chức yêu nước không cộng sản để cướp công và phá các tổ chức đó, như tổ chức thanh niên của kỹ sư Kha vạng Cân chẳng hạn. Và, Nguyễn văn Trấn cũng là kẻ đóng góp ý kiến cho Võ nguyên Giáp để lập ra “đảng ma” Nhân dân Cách mạng ở trong Nam và tổ chức “Mặt trận giải phóng” (xem cuốn “Gửi Mẹ và Quốc hội”). Ưng văn Khiêm, là kẻ nắm bộ ngoại giao, năm 1956 đã ký giấy dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng (Phạm văn Đồng khẳng định lại hành động Việt gian đó vào 1958).
Ngay Hoàng minh Chính, cho đến tận bây giờ, lúc nào cũng nhận là “tổng thư ký đảng dân chủ Việt Nam”, cố tình lờ đi việc ông ta là “đảng viên cộng sản” được Hồ giao cho giữ chức “tổng thư ký đảng dân chủ Việt Nam” để giám sát và lèo lái đảng “bạn” đi vào xa lộ của chủ nghĩa thực dân đỏ, và lừa quốc tế là có đa đảng. Trong nhóm “xét lại” còn có một số học về điện ảnh, văn học từ Nga-xô về, hoàn toàn là những tên “tây con” như người Hà-nội gọi chúng khi ấy. Đi đâu, đứng đâu cũng “lốp bốp”, “lép nhép” tiếng Nga. Bọn chúng ra công truyền bá tinh thần sùng bái mẫu quốc đỏ Nga-xô qua văn học, nghệ thuật, báo chí. Có những kẻ lập dị từ ăn ở, đi lại, cứ là như Đốt-tôi-épxki, Pao-tốp-xki, Tchec-nư-xép-xki, Mei-a-cốp-xki, Pô-lê-vôi… mũi tẹt da vàng vậy.
Ngay như bác sĩ Nguyễn khắc Viện, một tên cơ hội bẩn thỉu, biết bao lần “nói viết theo đuôi Tố Hữu”, xoay như thò lò. Ngay đầu 1991, Nguyễn khắc Viện còn viết trên báo Nhân dân, cảnh giác chớ “mở cửa cho phương tây”, mà phải ưu tiên đặc biệt quan hệ toàn diện với Nga-xô. Bài báo chưa khô mực thì Nga-xô đổ cái rụp. Cả đám “công dân loại 2” ở Hà-nội và Sài-gòn cười tên thò lò Nguyễn khắc Viện, sắp xuống lỗ vẫn cơ hội!!!
Tất cả những tên thò lò lưu manh đó, đều có điểm giống nhau là, khi sắp chết mới… dám viết “chút xíu trung thực” để kêu gọi lòng thương hại của thế hệ sau. Đó là loại như Xuân Diệu, Chế lan Viên, hay Nguyễn văn Trấn, Nguyễn Xiển, Nghiêm xuân Yêm v.v…
Thưa ông Bùi Tín,
Bản thân ông là một nhà báo kỳ cựu của cộng sản. Anh em họ hàng của ông cũng nhiều người là nhà văn, nhà báo cộng sản. Chắc chắn những sự việc nêu trên ông đều biết, mà còn biết tỷ mỷ nữa kia. Tại sao ông kêu gọi nên “trung thực” mà lại lờ đi những kẻ viết sách xuyên tạc sự thật, đánh bóng lũ Việt gian, tay sai của Nga-xô, thành như những người yêu nước, để những người Việt trung hậu ở trong và ngoài Việt Nam, cũng như các thế hệ sau này, vì thiếu thông tin mà bị mắc quả lừa. Ông thừa biết tụi tự nguyện làm tay sai cho Nga-xô đã tích cực biết nhường nào nên chưa đầy 20 năm mà các sách báo của Nga, ảnh tài tử Nga đã đặc kín các thư viện trung ương và địa phương; các tủ sách nhà máy, công trường, nông trường, trường học… mà còn trên đầu giường nhiều gia đình nông dân. Nhiều người cả đời chưa từng biết nước Nga ở đâu mà cũng đặt tên con là Mi-sa với Na-ta-sa. Nhiều nam nữ thanh niên không biết đến cả cái tên Nguyễn Du, Đoàn thị Điểm v.v…, nhưng lại thuộc thơ Ê-xê-nhin; thuộc từng đoạn văn xuôi của Đốt-tôi-épxki; những lời “vàng ngọc” của Tchéc-nư-xépxki và tiểu sử của từ Tolstoi cho đến Bô-rít Pô-lê-vôi, Bun-đa-chúc, Fa-đê-ép, Gô-gôn,Tuốc-ghê-ép, Tchai-kốp-xki…!!!
Nhiều nam nữ thanh niên công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên và ngay cả binh lính, công an; thư tình viết cho nhau cũng nhố nhăng: “chàng” gọi “nàng” là Lút-mi-la và “nàng gọi “chàng” là Xéc-gây… Học sinh, sinh viên hiểu về cuộc vượt sông Elbe” của “hồng quân Liên-xô” trong thế chiến thứ hai; về quân của Napoléon thất bại trước Ku-tu-dốp, mà không biết đến chiến thắng của Ngô Quyền; không biết đến quân của Lý Thường Kiệt đã đánh qua Tàu chặn đứng ý đồ xâm lược Việt Nam của Tàu, và không biết đến cả chiến thắng Rạch Gầm, Soài Mút của Quang Trung; còn buồn hơn nữa là chẳng biết đến Cử Huân, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám là ai, cũng như mù tịt về khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học!!!(?)
Thử hỏi như vậy là chúng đấu tranh cho “dân chủ” của nhân dân Việt Nam hay đấu tranh để xóa bỏ ảnh hưởng của văn học, nghệ thuật Việt Nam để cho tinh thần phụ thuộc, sùng bái Nga-xô đâm chồi, nẩy lộc trên khắp thành thị, xóm làng Việt Nam?
Đối với loại này, “hòa hợp – hòa giải” để nắm tay nhau cùng đi về hướng Mát-scơ-va chăng, cho dù là Mát-scơ-va của Putin?(!) Bài học làm tay sai cho Nga-xô còn nóng hổi!!!
Về nhóm “đấu tranh cho dân chủ”, thành quả cụ thể chưa có gì rõ ràng. Chỉ có thể căn cứ vào quan điểm của họ qua phỏng vấn và các bài viết đã được công khai hóa, thì thấy:
* Một số người có những bài viết rất “bốc lửa”, nêu đích danh một số tên đầu lãnh cộng sản và kể tội bọn chúng như những bài viết của ông Trần Khuê là một thí dụ. Nhưng nếu đọc cẩn thận thì thấy ông Trần Khuê chỉ đánh vào ngọn chứ không dám nêu ra cái gốc của tội lỗi. Chưa nói đến rằng, quan điểm của ông Trần Khuê còn rất nguy hiểm. Trong khi vạch tội những loại Đỗ Mười, Phạm thế Duyệt, Đào duy Quát v.v…, thì ông Trần Khuê lại đề cao Hồ chí Minh đến mức nâng lên thành chủ nghĩa Hồ chí Minh. Ông Trần Khuê tự bộc lộ là đệ tử cực kỳ trung thành của Hồ chí Minh, bỏ qua bằng chứng tội ác của Hồ, không muốn nhìn vào biết bao tài liệu đã và đang được khui ra. Hồ là kẻ độc tài nhất, tàn bạo nhất, là tên đại Việt gian nhất, không chỉ trong toàn bộ những tên Việt gian cộng sản, mà là nhất trong lịch sử Việt Nam. Tất cả những tên mà Trần Khuê hài tội đều do Hồ đề bạt, cất nhắc, đào tạo và điều đó chứng tỏ Hồ phải chịu trách nhiệm!
Cho nên việc đặt Trần Khuê là người đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam hiện nay thật là hài hước!!!
ở hải ngoại hiện nay, cần nhớ lại xem, tại sao 50 ngàn người đã xuống đường trong nhiều ngày, nhiều đêm để đấu tranh việc tên Trần Trường treo cờ máu và ảnh Hồ chí Minh ở trong cửa tiệm của hắn.
Trần Trường chỉ treo ảnh của Hồ “trong tiệm của hắn thì bị phản đối”.
Còn Trần Khuê ca ngợi, vinh danh Hồ, tuyên truyền rộng rãi trên các web thì được nâng lên thành nhà đấu tranh cho dân chủ!!!
Trần Trường và Trần Khuê, ai là kẻ xuyên tạc sự thật, bóp méo lịch sử và cực kỳ nguy hiểm cho việc đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam?!!!
Thử giả dụ như sau:
Một người Do-thái nào đó treo cờ phát-xít Đức và ảnh của Hitler ở trong nhà của họ và một người Do-thái khác viết sách, báo ca ngợi Hitler; thử hỏi kẻ nào đáng phỉ nhổ vào mặt hơn!!!
Là nạn nhân của tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh, phải bỏ tổ-quốc đi lưu vong, tỵ nạn, nhưng vẫn nung nấu lòng yêu nước, phục quốc. Vậy có thể nào phục quốc bằng cách đi theo một kẻ lấy đầu đội đít Hồ chí Minh lên mà thờ được không?
Phải chăng vì Trần Khuê bị cộng sản quản chế, mới đây lại bị bắt v.v… nên… là người đấu tranh cho dân chủ?
Phải căn cứ vào tuyên bố của họ, giấy trắng mực đen, chứ không phải nhìn vào việc cộng sản làm khó dễ hay bị bắt!
Trước đây, những tên tướng công an Mười Vân (Đồng Nai) bị tử hình; Năm Cam bị bắt; nguyên bộ trưởng điện, than Vũ ngọc Hải bị tù v.v… Như vậy cũng là đấu tranh cho dân chủ chăng?
Nhìn với góc độ là người tỵ nạn Việt gian cộng sản xâm lược, thì Năm Cam còn giúp mọi người thấy được bộ mặt thật của tập đoàn đầu nậu chóp bu của tụi Việt gian cộng sản đương quyền một cách thật cụ thể, nhất là công an và tòa án, công cụ chuyên chính của chúng. Còn Trần Khuê thì ngược lại, lớn tiếng tố cáo mấy tên cướp để rồi tạc tượng, lập đền thờ tên tướng cướp.
Công nhận công lao của Hồ như Trần Khuê quảng bá có nghĩa chúng ta đã tự phỉ nhổ vào tư cách tỵ nạn cộng sản xâm lược; phỉ báng sự hy sinh của quân, dân, cán, chính VNCH, và những nạn nhân của Hồ trong cải cách ruộng đất, chấn chỉnh tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và những người đã nằm dưới biển sâu trong cuộc vượt biển, tìm đường sống!!!
Từ Trần Khuê, tưởng cũng cần thiết phải nhắc lại nhân vật Trần Độ, tuy ông ta đã chết, nhằm khẳng định quan điểm trắng đen rõ ràng về khái niệm đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam hiện nay.
* Chú thích:
Phần I của bài, chúng tôi đã đánh máy nhầm rằng: “Maurice Thorez là tổng bí thư đảng cộng sản Pháp…” Xin vui lòng sửa lại là: chủ tịch đảng cộng sản Pháp…” Trân trọng cáo lỗi cùng quý vị độc giả.
No comments:
Post a Comment