Mặt trận Tổ quốc
của Cộng sản Việt Nam
vươn vòi bạch tuộc ra hải ngoại
Việt Thường
Từ ngày cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản hình thành ở hải ngoại, đã được tập đoàn Việt gian cộng sản “chiếu cố” tận tình, và ngày càng tận tình bằng mọi cách.
Năm 1978, khi tới Paris, Phạm văn Đồng, thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, đã lớn tiếng mạt sát cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản là đĩ diếm, trộm cướp, lười lao động, sợ gian khổ, phản động v.v…
Khi cái cộng đồng, bị vu cáo “lười lao động, sợ gian khổ” đó, đã cố gắng hội nhập với xã hội của thế giới tự do ở âu-Mỹ, thành đạt về mọi mặt, từ hoạt động chính trị xã hội, khoa học kỹ thuật đến kinh tế… Và, cũng nhờ đó mà các đồng US đô-la bay, như bươm bướm vào ngày hè ở Rừng Nguyên thủy Cúc Phương (Ninh Bình – Bắc Việt Nam), vượt đại dương, đậu đầy cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam. Từ đồng US đô-la, làng xóm Việt Nam bắt đầu có nhà ngói đỏ, có tiếng xe máy, có ti-vi màu v.v… Nhiều ngôi mộ được chỉnh trang làm đồng ruộng bớt hoang tàn. Nhân viên các cấp trong ngụy quyền Hà-nội, có dính dáng đến đồng US đô-la của cộng đồng người Việt tỵ nạn, gửi về giúp thân nhân, đều đỏ da thắm thịt hẳn lên. Và, cái lưỡi của Phạm văn Đồng, từng cất giọng chửi đổng ở giữa Paris, năm 1978, đã uốn éo, dịu dàng nâng chủ nhân của những đồng US đô-la lên là Việt kiều yêu nước! Nghe mà… mát cả cái ruột… già!
“Hội chứng Việt kiều” trong giới chức, từ hạ cấp tới chóp bu, trong mọi ngành, mọi cấp, mọi nơi của ngụy quyền Hà-nội, lên những cơn bịnh kỳ lạ, hệt như Sars hiện nay. Còn trong “quần chúng nhân dân” thì khỏi nói: Việt kiều yêu nước là niềm hy vọng, là niềm tự hào của mọi nhà. Nó hài hước đến cái mức một bà “Việt kiều ở Pháp”, làm nghề rửa bát ở tiệm ăn, vừa đặt chận tới sân bay Tân sơn Nhất đã có xe hơi của “tỉnh ủy Đồng Tháp” đón rước… về quê để xin liên doanh buôn bán, xin ủng hộ tài chánh cho các dự án phát triển của tỉnh! Và, một ông “Việt kiều ở Mỹ”, ăn tiền trợ cấp xã hội, vậy mà được phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng Võ văn Kiệt tiếp… kiến!!!
Những chuyện như trên không phải là “của hiếm” một thời ở cái nước có tên “cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Lý do thật đơn giản: vì kẻ nhiều người ít, hàng năm cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản gửi về trên dưới 2 tỷ US đô-la giúp thân nhân!
Thế là ngụy quyền Hà-nội vội đẻ ra mọi loại tổ chức, nâng lên đến ngang cấp boä, để cố vươn tay nắm lấy cái cộng đồng US đô-la này. Đúng là vớ được “hoàng tử Cóc… vàng”!!!
Sau đại hội cộng đảng Việt Nam lần 7 (1991) Đỗ Mười, anh công nhân “thiến heo”, có bệnh điên từ ngày cầm đầu cái gọi là “cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh” ở miền Bắc Việt Nam (1960), dù có được qua Tàu cộng chữa trị, nhưng thỉnh thoảng vẫn lên cơn, không phá làng phá xóm, mà chỉ leo lên cây bàng trước nhà nhìn trời, cười một mình; nhờ ngôi mộ tổ phát nên nhảy một cái lên chức tổng bí thư cộng đảng Việt Nam. Thế là cả ban chấp hành, cả đảng cộng… điên theo. Cũng chẳng phá làng, phá xóm. Cũng chẳng trèo lên cây bàng nhìn trời, cười một mình như me-xừ tổng bí thư. Tất cả điên vì… mê US đô-la! Cho nên “me-xừ tổng Mười” còn ngọt hơn “thủ Đồng”, bắn tiếng qua đài, qua báo chí rằng: “Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản – tức cộng đồng US đô-la” là người thân – tức khúc ruột ngoài xa. (Thấy sang bắt quàng làm… họ… mà!)
Thì ra, đại hội cộng đảng lần 7 (1991), ngoài những việc công khai, đã “tổng kết ngầm: kinh nghiệm về US đô-la”. Đó là:
“Tiền là Tiên, là Phật
Là sức bật của ông già
Là cái đà của danh vọng
Là cái lọng che thân” và v.v…
Và rút ra một nhận xét: “Cộng đồng… US đô-la mau giận, mau quên, giống như con bò sữa.”
Từ đó đã đến quyết tâm: “Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ chí Minh soi dọi và những bài học kinh nghiệm của “Hồ chủ tịch” để lại, trong việc lùa mọi “tầng lớp nhân dân là đối tượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa” vào các tổ chức – thành viên của Mặt trận, để dễ quản lý và… dễ làm thịt” (như địa chủ và các nhà công thương, các hào lý ở làng xã vào đảng Dân chủ; trí thức vào đảng Xã hội v.v….). Mồi câu cho họ tự nguyện đưa đầu vào bẫy là sáu (6) chữ: độc lập, tự do, hạnh phúc!!!
Hãy nhớ lại chuyện xưa
Giờ đây, sự thật lịch sử ngày càng được phơi bày rất phong phú qua nhân chứng, tài liệu từ chính tập đoàn Việt gian cộng sản viết ra. Có thể tóm tắt như sau:
1) Hễ có một tổ chức nào ra đời, là chúng tìm cách đưa người gia nhập tổ chức để lèo lái, phục vụ cho âm mưu bẩn thỉu của chúng. Khi không lèo lái được thì phá.
2) Cho người của chúng ra lập tổ chức, nhưng dấu mặt là cộng sản. Trường hợp này chúng thường thông qua những người ngây thơ chính trị hoặc tụi cơ hội, cò mồi, có một cái “nhãn” nào đó, để dễ lừa thiên hạ.
Thí dụ:
- Trong cuốn “Gửi mẹ và quốc hội”, Nguyễn văn Trấn có kể việc bọn chúng đã lèo lái bác sỹ Phạm ngọc Thạch để lập ra tổ chức “Thanh niên tiền phong”, và chúng cũng cho người len vào tổ chức “Thanh niên” của kỹ sư Kha vạng Cân.
- Sau năm 1954, chúng cho người móc nối với luật sư Nguyễn hữu Thọ… để cho ra đời cái gọi là “Mặt trận giải phóng miền Nam” nhằm thu hút những người có chút tiếng tăm nhưng nhẹ dạ về chính trị, như Dương quỳnh Hoa, Trương như Tảng, Lâm văn Tết, bác sỹ Phùng văn Cung v.v… làm cái bình phong cho âm mưu xâm lược. Mặt trận Liên minh Dân tộc của luật sư Trịnh đình Thảo cũng chung một số phận. Chúng cài người vào cả các tổ chức tôn giáo, như lèo lái để Đại học Vạn Hạnh thành cái ổ dịch bệnh “thành phần thứ ba”; những linh mục Phan hữu Từ, hoặc cả giáo sư Nguyễn ngọc Lan (hồi đó còn là linh mục) cũng được móc nối ra Bến Lức (vùng phiến quân cộng sản hoạt động) để bàn với chúng về “chính sách hòa giải”, như ông Bùi Tín có kể lại trong cuốn “Mặt Thật”, (tr. 215).
Xưa kia là những đảng Dân Chủ Việt Nam, đảng Xã Hội Việt Nam, đều là thành viên của Mặt trận Liên Việt, được Mặt trận Liên Việt (công cụ gom mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam của họ Hồ) tổ chức cho học tập chủ trương “giảm tôï, giảm tức”, “cải cách ruộng đất”, “chấn chỉnh tổ chức, “cách mạng văn hóa tư tưởng”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” v.v… Quá trình học tập là quá trình “đấu tố” lẫn nhau. Nói cho dễ hiểu là tất cả rơi vào ngón võ “để cho khỉ vặt lông khỉ” của họ Hồ. Và xong trò vặt lông, tất cả đều thành “đồ nhậu” của “bác Hồ” và cái đảng cộng sản, núp dưới tên đảng Lao động (đúng ra là đảng phá Lao động và giết mọi loại hình lao động, nhất là lao động trí óc). May mắn ai còn sống sót thì “trần truồng” thành “người nhộng” nên phải co cụm nằm im “ru bà rù” trong kén!!!
Thí dụ: bà Lợi Quyền, một tư sản đã quyên góp, nhiều nhất trong “tuần lễ vàng” của năm 1946, để Hồ có tiền, nói công khai laø đút lót cho quân Tàu Lư Hán, qua giải giới quân Nhật ở phía Bắc vĩ tuyến 13 của Việt Nam, để chúng sớm rút về nước. Nhưng, sự thật thì số đem đút lót chỉ có “chút chút” để bịp bà con Việt Nam yêu nước nhưng nhẹ dạ cả tin. Còn đại bộ phận là mua lại vũ khí của bọn Lư Hán để trang bị cho riêng những đơn vị quân lính và công an, tự vệ mà lúc đó tập đoàn Hồ chí Minh vội tuyển mộ để đàn áp các đảng phái, tổ chức không phải là cộng sản, như VNQDĐ, Đại Việt, Việt Cách v.v… Bà Lợi Quyền được Hồ thổi lên tận mây xanh trên báo chí, được tặng “bảng vàng yêu nước”. Các nhà công thương khác cũng được Hồ gặp mặt, cám ơn nhiệt thành. Bà Lợi Quyền, ông Nguyễn sơn Hà (tư sản ở Hải-phòng) cũng như đa số các nhà công thương yêu nước lúc ấy, đều có chân trong đảng Dân chủ Việt Nam – thành viên của Mặt trận Liên Việt của Hồ. Ông Nguyễn sơn Hà còn là đại biểu Quốc hội khóa 2!
Cuối cùng thì các vị công thương yêu nước đó cũng chỉ vì sáu chữ “độc lập, tự do, hạnh phúc” nên đưa đầu vào cho Hồ và cái đảng cộng sản của hắn… làm thịt, sau khi đã chiếm được miền Bắc Việt Nam. Bà Lợi Quyền thì quyền cũng không, kể cả quyền làm người dân thường. Còn răng thì sau đó cũng rụng hết, chết thịt gân tan hết nên lợi cũng tiêu luôn. Ông Nguyễn sơn Hà được làm “nghị gật” của quốc hội 2, mỗi năm một lần mượn người quen tấm áo lành lặn để… lên Hà-nội họp quốc hội cho đại diện hãng AFP của Pháp và phóng viên báo Humanité của cộng sản Pháp cũng như phóng viên Báo ảnh Việt Nam (chỗ nhà văn “xuất hiện trên văn đàn từ đầu thập niên 50” Vũ thư Hiên (như thông tấn VNN giới thiệu) làm phóng viên) chụp ảnh tuyên truyền cho nền dân chủ “đa đảng” theo “mô hình” của… “chủ nghĩa Hồ chí Minh”!!!
Đến lúc “thất cơ lỡ vận” đó, các nhà công thương yêu nước mới té ngửa ra rằng các vị lãnh tụ thực sự của đảng Dân chủ là Dương đức Hiền, Hoàng văn Đức, Đỗ đức Dục v.v… đã bị “vô hiệu hóa từ lâu”, và đảng Dân chủ do người của Hồ là những đảng viên cộng sản tin cẩn Hoàng minh Chính, Nguyễn thành Lê, Cù huy Cận v.v… đã đưa toàn đảng viên vào lò mổ có tên “chuyên chính vô sản”. Tiếc thay, biết khôn thì đã… hết đời!!!
Trong đảng Xã hội Việt Nam cũng thế. Qua “cách mạng văn hóa tư tưởng” mới trắng mắt ra. Ông kỹ sư Ngô huy Văn, ủy viên trung ương của đảng Xã hội, về chức vụ hành chính là Tổng cục phó kiêm Cục trưởng Cục điện chính của Tổng cục Bưu điện và Truyền thanh. Nhưng khi học “chính trị trong giờ hành chính” ở cơ quan (chương trình kinh tế – chính trị học), vì là đảng viên trong một đảng không phải là cộng sản, nên ông Ngô huy Văn – theo quan điểm tổ chức lớp học – dù là kỹ sư lâu năm nhưng chỉ được học ở “trình độ sơ cấp”, nghĩa là chung một lớp với quét rác, nấu bếp, lái xe của cơ quan!
Tổng thư ký đảng Xã hội Việt Nam là kỹ sư Nguyễn Xiển (từng nổi danh thần đồng như Nguyễn thế Truyền, Nguyễn mạnh Tường v.v…) ép lòng làm “người nhộng” cho đến cuối đời, lúc hơn 80 tuổi, mới dám kêu não nuột như tiếng kêu của con thiên nga trước khi chết.
Còn các “Mặt trận giải phóng miền Nam”, “Mặt trận Liên minh dân tộc” và v.v… cùng với thân phận của những bác sỹ Phùng văn Cung, Lâm văn Tết, hòa thượng Thích đôn Hậu, Trương như Tảng, bà Dương quỳnh Hoa, tiến sỹ Lê văn Hảo, luật sư Trịnh đình Thảo v.v…, là những bậc khoa bảng tiếng tăm gấp ngàn lần mấy “chú dế trọi” ở Toronto, diễn biến ra sao thì nhiều người đã viết rồi.
Cái mồi dân chủ đã ra hải ngoại
Tập đoàn Việt gian cộng sản đã làm chủ trọn vẹn cả hai miền Nam – Bắc Việt Nam. Nhưng, đôi mắt của những tên cướp ngày đó vẫn thèm thuồng nhìn ra hải ngoại: cái cộng đồng người Việt ở hải ngoại, chỉ có gần 3 triệu, mà US đô-la gửi chính thức (chưa kể “chui”) đã trên dưới 2 tỷ một năm! Đúng là một mỏ vàng! Chưa kể với con số trên 300 ngàn trí thức, chuyên gia các ngành kinh tế, khoa học kỹ thuật mũi nhọn, ở trình độ tiên tiến của âu-Mỹ.
Dù đã cho những tay sai nằm vùng hoạt động, móc nối những “cựu” thành phần thứ ba; những tụi coi “đấu tranh chính trị” là một dịch vụ nhàn hạ mà ra tiền ra danh; những tụi đã chót “lỡ làng” khi nằm ở các trại cải tạo v.v… để lập “tổ chức ma”, để “đấu tranh cuội” với những khẩu hiệu “quên quá khứ, xóa bỏ hận thù, hướng về… tương lai”; “hòa giải hòa hợp” để xây dựng đất nước v.v…; và cố vươn tay nắm lấy cơ quan truyền thông ở hải ngoại; dùng danh và lợi mua những “ngòi bút bất lương” để cho ra mọi sản phẩm giả, trắng đen lẫn lộn – nghĩa là sản xuất các “thông tin tẩm độc”.
Tập đoàn Việt gian cộng sản vốn sinh ra từ bàn tay các “đồ tể” Nga-xô, Tàu cộng; đã được tôi luyện trong bàn tay tên gián điệp lão luyện, tên lừa đảo, thợ bịp chuyên nghiệp là Hồ chí Minh và hầu hết bọn chúng đã thực tập chém giết nhân dân, lừa đảo cả trong và ngoài nước trong suốt quá trình cuộc chiến bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô và Tàu cộng ra toàn cõi Đông dương.
Cho nên, chừng nào chúng vẫn còn “độc quyền đảng trị”, “độc quyền nắm giữ lực lượng vũ trang”, vẫn “lấy tư tưởng Hồ chí Minh” làm nền tảng cho mọi đường lối, chính sách v.v… thì cộng đồng người Việt hải ngoại cần tỉnh táo, cần nhắc nhở nhau về những bài học lịch sử vừa qua.
Qua nhiều ngón võ thăm dò, tập đoàn Việt gian cộng sản đã thấy cái cộng đồng người Việt hải ngoại có lòng yêu nước chân thành, cuồng nhiệt đến mức để tình cảm chi phối mất cả tỉnh táo.
Lấy thí dụ: Đọc lại bài văn tế tên trung tướng cộng sản Trần Độ của cái gọi là nhóm “trí thức” trẻ ở Toronto, họ viết rằng:
“Thưa Cụ Trần Độ,
Là người xem thường tù đày, xông pha trận mạc từ năm 16 tuổi và tới năm 70 tuổi, vì quốc gia dân tộc mà cất cao giọng trước cường quyền, Cụ là anh hùng. Mà nói như ngạn ngữ: “Anh hùng tử, khí anh hùng bất tử”.
Là người tung hoành chốn văn chương, Cụ là đấng tài hoa. Mà nói như Nguyễn Du: Xưa nay những đấng tài hoa, thác là thể phách còn là tinh anh”.
Thưa Cụ,
Chúng tôi lớp lớp hậu sinh
Chúng tôi ân hận mình sinh sau đẻ muộn không được đi theo Cụ trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
Chúng tôi biết ơn Cụ vì những điều lớn lao Cụ đóng góp cho giống nòi…”
Bài văn tế còn dài. Chỉ trích một đoạn mở đầu để những “trí thức thứ thiệt” thấy nó còn “lâm ly” hơn Văn tế Nghĩa sỹ Cần Giuộc rất, rất nhiều (chẳng biết nhóm trí thức trẻ có biết Cần Giuộc ở đâu và tại sao lại có bài Văn tế đó?). Ngay con đẻ của Trần Độ đọc được bài văn tế này chắc cũng phải đỏ mặt vì… xấu hổ (chứ không phải cảm động); và Trần Độ nếu sống lại chắc phải vái mấy “trí thức trẻ đó” và chạy… dài.
Bài văn tế nói trên cho ta thấy:
a- Tác giả hoàn toàn chẳng biết gì về Trần Độ. Vì, năm 16 tuổi Trần Độ còn là “thằng cu” Tạ ngọc Phách, mải đánh đáo khi đi chăn trâu cùng trẻ ở làng chứ xông pha ở trận mạc nào ở Việt Nam (nên đọc lại lịch sử Việt Nam đi, tội quá!)
b- Trần Độ làm gì mà “tung hoành trong chốn văn chương”? Ngay hồi ký còn phải nhờ người sửa hộ. Hẳn là như Trần Độ có tự thú trong tập hồi ký mới nhất rằng chót dại “Đánh tụi Nhân văn – Giai phẩm” ra trò. Đúng là “tung hoành” thật!”
c- Đọc được bài Văn tế này, Tố Hữu đã hộc máu chết như Chu Du trong chuyện Tam quốc của Tàu, vì thấy “lũ hậu sinh này có tài xuyên tạc và thổi ống đu đủ còn hơn Tố Hữu vạn lần, khi hạ bút nịnh Stalin là “cây đại thụ” và nịnh Hồ trong bài “Sáng tháng năm”!
d- Các tác giả có “tội nghiệp cho con cháu” khi bức màn lịch sử được vén lên và… búa rìu dư luận sẽ giáng xuống đầu con cháu của “bồi bút, trí nô” như thế nào?
e- Chữ nghĩa nịnh Trần Độ ra hết rồi, đến lúc tiến sỹ, viện sỹ Nguyễn thanh Giang đi “gặp tướng hai lần anh hùng Trần Độ” thì… chả lẽ sao lại nguyên văn chăng?
Chính vì trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại còn những loại “trí ngủ, bội thực chữ nghĩa, trái tim “ngục tù” nô lệ” như vậy, và nhiều ngòi bút cùng một số cơ quan truyền thông hoặc ủng hộ ngầm hoặc làm như “mắt mù, tai điếc”, để mặc cho đám cỏ dại đó mọc loang lỗ. Cho nên tập đoàn Việt gian cộng sản, theo “tư tưởng Hồ chí Minh” soi sáng, quyết bẫy cộng đồng nhiều US đô-la này vào tổ chức để dễ lèo lái và vắt sữa.
Trong Nghị quyết 7 (khóa 9) của cộng đảng, chúng nêu ra quan điểm là:
“Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.”(1)
Phần những chủ trương và giải pháp chủ yếu của nghị quyết 7, đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, chúng viết:
“… có chính sách động viên và tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương tham gia xây dựng đất nước… Có chính sách khen thưởng người Việt Nam ở nước ngoài có nhiều thành tích đóng góp cho Tổ quốc.”(2)
Vì thế, nghị quyết 7 nhấn mạnh đến việc:
“Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc.”(3)
Trước đây, tập đoàn Việt gian cộng sản đã cố buộc người Việt tỵ nạn cộng sản bằng cái tổ chức mang tên “Hội thân nhân người Việt Nam ở nước ngoài” và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cái tổ chức đó chỉ như sợi dây cột được cái bóng của cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà thôi. Nghĩa là vẫn chưa tập hợp được nhân dân Việt Nam ở hải ngoại.
Việc ra mắt cái gọi là “Văn phòng đại diện” của “Hội nhân dân Việt Nam chống tham nhũng” ở hải ngoại chính là việc cụ thể hóa nghị quyết 7 (khóa 9) của cộng đảng bằng “đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân”.
Hãy tỉnh táo vạch mặt tụi bất lương
Xin quí vị Việt Nam ở hải ngoại hãy để chút thì giờ xem kỹ lại bản Nhiệm vụ và mục tiêu của “Văn phòng đại diện” của “Hội nhân dân Việt Nam chống tham nhũng”. Vì sợ lộ tẩy nên chỉ lủn củn vài hàng chữ, nhưng cái mục đích bất lương vẫn bị lòi ra ở chỗ, về tổ chức:
1) Là một bộ phận của HNDVNCTN tại Việt Nam;
2) Là tập hợp duy nhất của người Việt Nam ở hải ngoại chính thức đại diện cho HNDVNCTN tại Việt Nam.
Về nhiệm vụ của hội viên trong văn phòng đại diện, có mấy điểm cần lưu ý:
1- Vận động, thu nhận, điều hành người vào Văn phòng đại diện.
2- Gây quỹ, đóng góp tài chánh
Về mục tiêu ngắn hạn:
1. Thúc đẩy HNDVNCTN phải được tự do hoạt động tại Việt Nam
2. … đứng ngoài chính phủ, nhưng quan sát và thẩm tra chính phủ để thông tin cho toàn dân
3. … phải được quốc tế yểm trợ về tinh thần, vật chất cũng như những phương tiện cần thiết…
Về mục tiêu dài hạn:
Phải dân chủ hóa đất nước để diệt trừ tận gốc rễ của tệ tham nhũng tại Việt Nam. (Xin đọc toàn bộ bản văn: Văn phòng đại diện (VPĐD) ở phần chú thích).
Cần lưu ý những câu chữ “mơ hồ” trong bản văn này, đó là: “đứng ngoài chính phủ…”. Nếu ai chưa có điều kiện tìm hiểu cơ chế tổ chức của ngụy quyền cộng sản Việt Nam thì sẽ bị quả lừa. Bởi vì trong điều lệ tổ chức của các “tổ chức vệ tinh” do cộng sản nặn ra như công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ v.v… đều là tổ chức ngoài chính phủ và có nhiệm vụ và quyền giám sát chính phủ. Mặt trận Tổ quốc là liên minh của những tổ chức nói trên của nhân dân Việt Nam, và nó cũng nằm ngoài chính phủ và giám sát chính phủ.
Những tổ chức nói trên về hình thức tổ chức là của nhân dân, nằm ngoài chính phủ và giám sát chính phủ. Còn về nội dung tổ chức, đó là công cụ của ngụy quyền cộng sản nhằm đưa toàn thể nhân dân Việt Nam vào tổ chức để dễ quản lý và khống chế, khai thác có lợi cho sự độc quyền đảng trị của cộng sản. – Vì sao là công cụ?
- Bởi vì, những kẻ lãnh đạo phải là đảng viên cộng sản (hoặc công khai hoặc bí mật), hoặc những kẻ có chút danh tiếng, địa vị xã hội nhưng tự nguyện làm tay sai cho cộng sản hoặc bị cộng sản cài bẫy nên phải để chúng sử dụng làm bình phong.
Thí dụ: một ai đó khi bị cộng sản bắt đi cải tạo đã khai báo về bạn đồng tù để được chút ưu đãi về thăm nuôi chẳng hạn, nay ra hải ngoại chúng bám theo để bắt làm việc cho chúng.
Cho nên lập Hội chống tham nhũng ở Việt Nam thì có thể còn có lý do chính đáng. Đem ra phát triển Hội ở hải ngoại thì thật là đại khôi hài.
Những ai không tường tận tình hình ở Việt Nam dưới sự thống trị của tụi Việt gian cộng sản, dễ bị cái mồi câu “dân chủ hóa đất nước để diệt trừ tận gốc rễ của tệ tham nhũng tại Việt Nam”.
Từ ngày cái Hội chống tham nhũng ở Việt Nam ra đời, với Trần Khuê là “bộ óc lý luận” của Hội, chưa làm được một việc gì ngoài việc mượn cớ chống tham nhũng để tuyên truyền “chủ nghĩa Hồ chí Minh” mà ngay một người “không làm chính trị” như Vũ thư Hiên, trong bài nói chuyện buổi ra mắt của Văn phòng đại diện, ngày 6-4-2003 tại Milpitas, California, cũng phải thú nhận rằng: cả Trần Khuê lẫn Phạm quế Dương, hai ông trùm của Hội:
“… đều không tiếc lời ca ngợi Đảng vinh quang trong mọi bài viết, luôn nhắc tới những công lao trời biển của Đảng lãnh đạo, đến nỗi nếu tách riêng những lời xưng tụng ấy ra khỏi toàn bộ văn cảnh của đơn từ thì có thể nói họ là những cán bộ tuyên huấn xuất sắc.”
Không chỉ là một cán bộ tuyên huấn xuất sắc như Vũ thư Hiên nhận xét, Trần Khuê là kẻ đầu tiên tổng kết tư tưởng và hoạt động của Hồ để cao giọng đề xuất lấy chủ nghĩa Hồ chí Minh làm nền tảng dân chủ hóa đất nước.
Đẩy tư tưởng Hồ chí Minh lên thành chủ nghĩa Hồ chí Minh, Trần Khuê đã tự bộc lộ là phần tử cực tả trong xã hội cộng sản đương quyền ở Việt Nam.
Nhìn vào “vị lãnh tụ tối cao” của cái Hội chống tham nhũng ở Việt Nam, với khuynh hướng cực tả;
Nhìn vào “nhân sự hải ngoại” của Hội, như bác sỹ Lâm thu Vân, kẻ tôn thờ tên đồ tể Trần Độ còn hơn Tố Hữu tôn thờ Stalin và Hồ. Mà Trần Độ đến lúc chết vẫn còn tự hào là đệ tử trung thành của Hồ và… Đặng tiểu Bình, tác giả dùng xe-tăng đè nát những người đòi dân chủ ở Thiên an môn (Bắc Kinh).
Nhìn vào vị “mở lời huấn thị” cho ngày ra mắt của Văn phòng đại diện, là nhà văn, xuất hiện trên văn đàn từ đầu thập niên 50, Vũ thư Hiên, một người “không làm chính trị”…
Bình tĩnh chút xíu mà suy nghĩ sẽ biết cái tổ chức này là cái quái thai gì, nó là con đẻ hoặc con nuôi của ai và nó thực ra chỉ muốn xin tiền của cộng đồng US đô-la mà thôi.
Chúng ta ở hải ngoại có nhiều việc để thực sự dân chủ hóa Việt Nam bằng khả năng hiện hữu, bằng những hoạt động đang mang hiệu quả thiết thực như đấu tranh để Dự luật Nhân quyền cho Việt Nam được thông qua, không chỉ ở Mỹ mà ở khắp các nước; đấu tranh cho lá Quốc kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ có vị trí xứng đáng với truyền thống chống xâm lược đỏ; đấu tranh cho Quốc tế biết đến những vụ đàn áp mọi mặt ở Việt Nam.
Trên thực tế, ngụy quyền cộng sản Việt Nam cũng đề ra chống tham nhũng trong mọi nghị quyết. Trên thực tế, chúng đã cho xử vụ Năm Cam, hạ bệ nhiều tên trong trung ương cộng đảng của chúng như Trần mai Hạnh, Phạm sỹ Chiến, Bùi quốc Huy, và ngay cả Trương tấn Sang, một ủy viên chính trị bộ của chúng cũng bị khiển trách.
Còn hội chống tham nhũng của Trần Khuê làm được cái gì, chỉ đưa ra những trò vớ vẩn, mất thì giờ của thiên hạ.
Chúng ta hãy để thì giờ, tiền của maø đấu tranh cho những người thực tâm vì tiền đồ của Tổ quốc Việt Nam.
Đó là những vị: Linh mục Nguyễn văn Lý – Giáo sư Nguyễn đình Huy – Thương gia Nguyễn khắc Toàn – Luật sư Lê chí Quang – Bác sỹ Phạm hồng Sơn – Nhà báo Nguyễn vũ Bình – Hòa thượng Thích huyền Quang – Hòa thượng Thích quảng Độ – Cụ Lê quang Liêm v.v…
Và, xin đừng quên những vị như Lý Tống – Nguyễn thị Ngọc Hạnh!
Còn nếu muốn đóng góp US đô-la cho ngụy quyền cộng sản Hà-nội thì đóng thẳng cho tên Phạm thế Duyệt, chủ tịch đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tội gì mà đóng cho mấy loại nhí như đại diện của Văn phòng đại diện Hội của Trần Khuê, nhà nghiên cứu “Hồ chí Minh học”, có khi lại bị xà xẻo thì đáng tiếc lắm sao!!!
Ban bí thư cộng đảng vừa ra chỉ thị đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ chí Minh trong giai đoạn mới.
Bản chỉ thị của chúng viết:
“Đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn, luận điệu của các thế lực thù địch và bọn cơ hội nhằm hạ thấp, bôi nhọ, cắt xén, xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ chí Minh.”(4)
“Có kế hoạch đầu tư, xây dựng, nâng cấp các nhà bảo tàng, khu di tích, nhà lưu niệm về chủ tịch Hồ chí Minh, ban hành văn bản hướng dẫn quy hoạch việc xây dựng tượng đài Chủ tịch Hồ chí Minh, phối hợp với các Hội Văn học nghệ thuật giới thiệu rộng rãi các văn hóa phẩm có giá trị về Chù tịch Hồ chí Minh trong nước và trên thế giới.”(5)
“Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ chí Minh qua các phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động văn hóa, văn nghệ.”(6)
Chỉ thị của chúng cũng nhắc đến chuẩn bị kỷ niệm ngày sinh lần 115 của Hồ và 60 năm ngày ách thực dân đỏ đặt lên cổ nhân dân Việt Nam.
Dưới sự cai trị của ngụy quyền Việt gian cộng sản, mọi cá nhân, mọi tổ chức đều “thi đua công tác” từ đầu tháng 4 hàng năm để lấy thành tích chào mừng ngày quốc tế lao động 1-5 và ngày sinh của Hồ, 19-5.
Chẳng biết có ngẫu nhiên hay không mà ngày ra mắt Văn phòng đại diện HNDVNCTN ở hải ngoại lại đúng vào Đầu tháng 4, phù hợp với nội dung Nghị quyết 7 (khóa 9) của cộng đảng và chỉ thị về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ chí Minh trong giai đoạn mới.
Ngày ra mắt Văn phòng đại diện cũng là ngày giới thiệu cuốn “Đối thoại”, là tập hợp những bài viết của Trần Khuê. Những bài đó đều đề cập đến chủ nghĩa Hồ chí Minh!!!
Thế nghĩa là cái gì???
Ngày 12/04/2003
Chú thích:
- 1-2 và 3: Trích “Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa IX)” (Báo Nhân dân điện tử ngày 20-3-2003)
- 4-5 và 6: Trích “Chỉ thị của Ban Bí thư về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ chí Minh trong giai đoạn mới” (Báo Nhân dân điện tử ngày 4-4-2003)
No comments:
Post a Comment